PHƯƠNG PHÁP CHỌN ĐẤT VÀ KÉN HƯỚNG LÀM NHÀ CỦA NGƯỜI XƯA

PHƯƠNG PHÁP CHỌN ĐẤT VÀ KÉN HƯỚNG LÀM NHÀ CỦA NGƯỜI XƯA

Quan niệm của người xưa về việc chọn đất làm nhà theo Phong thủy

Phong thủy tồn tại hơn 2000 năm, thời kỳ cực thịnh là các triều Minh và Thanh ở Trung Quốc, vào khoảng năm 1369 đến đầu thế kỷ XX.

Phong thủy là địa thế, địa hình, là đất là nước quanh ta. Phong thủy là môi trường mà con người tồn tại trong đó. Thuật phong thủy là những luận lý, những suy nghĩ của con người và sự thích ứng của con người với cuộc sống khi sống trong cái phong thủy ấy. Như vậy, phong thủy là tồn tại khách quan, còn thuật phong thủy là sản phẩm của ý thức liên quan đến phong thủy.

Phong thủy còn có ý nghĩa rộng hơn, là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, sao trời, vũ trụ, trái đất, khí tượng, địa thế làm nhà, đặt mồ mả… Vừa gần gũi với con người, lại vừa xa vời vì lý luận cơ bản của phong thủy (Kinh Dịch, Âm Dương Ngũ Hành) rất trừu tượng, thuật ngữ sử dụng khác lạ với ngôn ngữ hàng ngày, tạo ra sự bí hiểm cho phong thủy.

Điều có thể khẳng định là phong thủy có sức sống lâu bền. Vậy cái lý để nó tồn tại là gì? Có người xếp phong thủy như một hiện tượng văn hóa, vì nó sống trong phần hồn của con người.

Trong phong thủy và thuật phong thủy, có cái lý giải được theo khoa học như địa hình, địa thế làm nhà chịu ảnh hưởng của địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu. Xem thế đất làm nhà chính là chọn nơi xây nhà theo các điều kiện thuận lợi về phương vị, khí hậu, địa chất công trình tốt, địa chất thủy văn phù hợp. Đây chính là khâu điều tra cơ bản để chọn địa điểm xây dựng. Từ môi trường vi khí hậu tốt mà chủ nhà có sức khỏe tốt, tâm lý tốt, ăn nên làm ra – đấy chính là những nhân tố tích cực.

Phong thủy trở nên thần bí, võ đoán khi gán cho những thế đất như: “đất này thì đau mắt”, “đất kia con gái lại góa chồng”… là điều chưa hẳn dễ tin.

Đọc phong thủy, tìm hiểu phong thủy để tìm ra yếu tố giúp nó tồn tại như một hiện tượng văn hóa, dùng nhãn quan khoa học để khen cái đúng, chê cái bịa đặt là điều cần làm. Đối chiếu những điều đã có trong phong thủy và thuật phong thủy, “gạn đục khơi trong” với phong thủy là điều có thể làm được.

Phong thủy gắn liền với đất đai, với phương hướng. Tri thức về phong thủy không thể tách rời với những khái niệm cơ bản về phương vị hiểu theo cách của người Trung Quốc cổ.

Để xác định phương vị khi đi khảo sát đất đai, người ta dùng dụng cụ gọi là la bàn. La bàn lớn gọi là la kinh, la bàn nhỏ gọi là tróc long. Trên la bàn, la kinh hay tróc long vẽ nhiều vòng tròn và các vạch xuyên tâm chia phương vị.

Đời Minh có Từ Chi Mạc soạn “La bàn chỉ nam trâm” gồm hai quyển chỉ nam châm. Sách này cho rằng la kinh lúc đó có 24 hướng, bỏ quên 12 chi của Tiên thiên, nên thêm 12 chi, chia làm 33 tầng, trình bày bằng chữ và vẽ hình. Ngoài ra, sách còn một phụ lục do Chu Chi Tương vẽ.

Thẩm Thăng đời Minh cũng soạn “La kinh định môn trâm”, bàn về tiêu nạp khí trong 72 long mạch.

Chính giữa la bàn gắn một kim nam châm có trục quay. Phần dưới kim là các vòng tròn đồng tâm và những tia đi qua trục kim nam châm ghi phương vị. Trong các vòng tròn (thường là ba vòng), vòng trong cùng gọi là địa bàn, vòng giữa là nhân bàn, và vòng ngoài cùng là thiên bàn. La kinh có thể có tới 13 vòng.

Nếu chỉ có ba vòng, thì vòng thiên bàn dùng để xem hướng nước tụ, nước chảy. Vòng địa bàn để ấn định long mạch. Vòng nhân bàn để luận sự tốt – xấu của các gò đống (mà phong thủy gọi là sa). Vòng tròn được chia thành 24 ô, mỗi ô ứng với 15°.

Nếu lấy vòng tròn địa bàn làm gốc thì vòng thiên bàn lệch về bên phải nửa ô và vòng nhân bàn lệch về bên trái nửa ô.

Tại tâm thường làm một vòng nhỏ, chia thành hình Âm – Dương. Nhận thức là: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng bao gồm Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm – đó chính là bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cách xác định phương vị trước thời Tần là: khi đi, trước mặt là Chu Tước, sau lưng là Huyền Vũ, bên tả là Thanh Long, bên hữu là Bạch Hổ. Điều này có nghĩa là: trước mặt là Nam, sau lưng là Bắc, bên trái là Đông, bên phải là Tây.

Chính Bắc ghi chữ , chính Nam ghi chữ Ngọ, chính Đông ghi chữ Mão, chính Tây ghi chữ Dậu. Tính theo chiều kim đồng hồ thì lần lượt 24 ô như sau:
Mão, Ất, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp.

Chuyện lưu truyền rằng, khi Quản Lộ (đời Tam Quốc) đi về phía Tây gặp mộ Vô Hưu Kiệm thì than thở, không vui mà nhận xét: “Cây cối tuy nhiều mà từ lâu không có bóng, bia mộ lời ghi hoa mỹ nhưng không có hậu để giữ gìn. Huyền Vũ khuất mất đầu, Thanh Long không có chân, Bạch Hổ đang ngậm xác chết, Chu Tước đang rên rỉ, mối nguy đã phục khắp bốn bề, họa diệt tộc ắt là sắp đến”. Và thực tế, không quá hai năm sau, những điều Quản Lộ nói đã ứng nghiệm.

Quách Phác trong “Táng Kinh” dặn rằng: Thanh Long bên trái, Bạch Hổ bên phải, Chu Tước đằng trước, Huyền Vũ đằng sau. Muốn được mồ yên mả đẹp thì: Huyền Vũ phải cúi đầu, Chu Tước dang cánh, Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ quy thuận. Khi nhìn thế đất, đồng thời phải nhìn màu đất. Nếu ta thăm đàn tế xã tắc ở công viên Trung Sơn, Bắc Kinh (Trung Quốc) thì thấy: phương Đông Thanh Long, đất màu xanh cây cỏ; phương Tây Bạch Hổ, đất trắng bạc; phương Nam Chu Tước, đất đỏ màu hồng; phương Bắc Huyền Vũ, đất có màu đen. Giữa đàn cúng, đất màu vàng tượng trưng cho con người.

Tứ tượng sinh Bát quái. Ngoài tứ tượng đã có lặp lại trong Bát quái, còn thêm 4 hướng của Bát quái là: Càn, Khôn, Cấn, Tốn – đó chính là các hướng Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam.

Như thế, phương Đông có Giáp, Mão, Ất; phía Đông Nam có Thìn, Tốn, Tỵ; phía Nam có Bính, Ngọ, Đinh; phía Tây Nam có Mùi, Khôn, Thân; phía Tây có Canh, Dậu, Tân; Tây Bắc có Tuất, Càn, Hợi; Bắc có Nhâm, Tý, Quý; phía Đông Bắc có Sửu, Cấn, Dần.

Các hướng thuộc địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi (12 hướng địa chi). Tám hướng thuộc thập can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý (bỏ Mậu, Kỷ trong thập can).

Các hướng xếp đối xứng gọi là Bát sơn đối diện gồm: Càn – Tốn, Khảm – Ly, Cấn – Khôn, Chấn – Đoài. Bắc thuộc Khảm, Đông thuộc Chấn, Nam thuộc Ly, Tây thuộc Đoài.

Phân vị theo Ngũ hành thì:

  • Chính giữa là hành Thổ,

  • Bắc thuộc hành Thủy,

  • Đông thuộc hành Mộc,

  • Nam thuộc hành Hỏa,

  • Tây thuộc hành Kim.

Còn cách gọi khác:

  • Thủy là Nhuận hạ,

  • Hỏa là Viên thượng,

  • Mộc là Khúc trực,

  • Kim là Tòng cách,

  • Thổ là Gia tàng.

Theo Hồng Vũ cấm thư luận về Ngũ hành tương ngộ thì: “Thủy giao Thủy nam nữ tất dâm”. Phương Bắc thuộc Thủy. Nếu có nước thâm nhập từ phương Bắc vào khu đất ta ở hay mộ phần thì con cái không ổn. Nếu dựng nhà quay mặt hướng Nam thì sau nhà là Huyền Vũ. Huyền Vũ phải là thế đất nhô cao, có gò thoải mới thuận mới đẹp. Gò thoải là thế Huyền Vũ cúi đầu. Nếu sau nhà là đầm nước hoặc vách núi dựng thì có khác gì Huyền Vũ mất đầu.

Phương Nam là Hỏa, mà thế đất lại nhọn, khác nào như lửa gặp lửa, theo phong thủy thì ở đất ấy hay gặp điều kiện tụng. Phương Tây của nhà xem xét là Kim mà thế tròn (Kim) thì gia chủ sẽ giàu có, thịnh vượng. Phía Đông nhà là hướng Mộc lại có thế đất dài là Mộc thì Mộc – Mộc tương sinh, trai gái trong nhà giàu sang phú quý.

Ngoài ra, quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân còn có quy ước:

  • Tý là Nhân huyệt,

  • Cấn là Quỷ môn,

  • Tốn là Địa hộ,

  • Bính là Địa huyệt,

  • Khôn là Nhân môn,

  • Canh là Thiên huyệt,

  • Càn là Thiên môn.

Trong quá trình xem xét phương vị thì Tiên Thiên Bát Quái của Phục Hy được dùng để phối hợp Âm Dương; Hậu Thiên Bát Quái của Văn Vương để xếp các hào tượng.

Ra đến địa hình cụ thể:

  • Khu đất bằng phẳng là Dương, gò đống nổi cao lại là Âm.

  • Đất sơn cước cương dũng nên chọn làm nhà, đặt mộ ở nơi có mạch nhỏ (long gầy).

  • Đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí cao để tọa lạc (đột khỏi).

  • Khu đất đẹp: bên trái có Thanh Long (mạch nước), bên phải có Bạch Hổ (đường dài), thế đất đằng trước có ao đầm tỏa rộng (Chu Tước), đằng sau có gò tròn tựa lưng (Huyền Vũ).

    • Long là Dương, Hổ là Âm. Long – Hổ tương nhượng thì gia đình hòa thuận, trai gái sum vầy.

Chọn các thế đất, cách chọn hướng, suy cho cùng sau khi loại bỏ những điều thần bí và mê tín thì cũng là chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thỏa đáng.

Thuật phong thủy nghiên cứu những vận động tự nhiên của môi trường sống của con người để mưu cầu sự tiện nghi trong cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Gặp hướng nghịch thì dùng giải pháp che nắng, chắn gió.

Phong thủy ghi lại dấu ấn của một hiện tượng văn hóa xưa. Đời nay biết mà xem người xưa mưu cầu tiện nghi cuộc sống ra sao. Thực ra thì người xưa chế tác ra thuật phong thủy cũng chỉ là cách tìm hiểu thiên nhiên và sự vận động của thiên nhiên, rồi hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên để chung sống với môi trường sao cho có lợi nhất cho con người.

Phương vị theo Ngũ hành:

  • Chính giữa là hành Thổ,

  • Bắc thuộc hành Thủy,

  • Đông thuộc hành Mộc,

  • Nam thuộc hành Hỏa,

  • Tây thuộc hành Kim.

Còn cách gọi khác:

  • Thủy là Nhuận hạ,

  • Hỏa là Viên thượng,

  • Mộc là Khúc trực,

  • Kim là Tòng cách,

  • Thổ là Gia tàng.
    → Đó là Chính – Ngũ – Hành.

Thuật phong thủy chú ý đến tọa sơn, hướng thượng. Thực tế Ngũ hành chỉ sử dụng tứ hành, cho nên còn có tên gọi của Ngũ hành là “Tứ kinh Ngũ hành”.

  • Dần – Ngọ – Tuất hợp thành nhóm Hỏa.

  • Tỵ – Dậu – Sửu hợp thành nhóm Kim.

  • Thân – Tý – Thìn hợp thành nhóm Thủy.

  • Hợi – Mão – Mùi hợp thành nhóm Mộc.

Mỗi nhóm có ba phương: sinh, vượng, mộ hợp thành nên gọi là “tam hợp Ngũ hành”.

Bát quái Ngũ hành phân biệt khác với Chính Ngũ hành và các loại Ngũ hành khác. Bát quái Ngũ hành chủ trương lấy hình thể ghép thành cụm mà luận Ngũ hành. Bát quái gồm: Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài, Tốn.

Theo đồ Tiên Thiên Bát Quái:

  • Càn ở Nam,

  • Khôn ở Bắc,

  • Ly ở Đông,

  • Khảm ở Tây,

  • Đoài ở Đông Nam,

  • Chấn ở Đông Bắc,

  • Tốn ở Tây Nam,

  • Cấn ở Tây Bắc.

→ Đến Hậu Thiên Bát Quái thì địa vị của tám quẻ hoàn toàn thay đổi. Sự thay đổi này do luận lý Âm Dương giao hòa tạo nên.

  • Càn là Dương thuần, hút khí Âm của Khôn biến thành Tốn, lần hai thành Ly, lần ba thành Đoài.

  • Khôn là Âm thuần, đoạt khí Dương của Càn, biến lần đầu thành Chấn, lần hai thành Khảm, lần ba thành Cấn.

Luận Ngũ hành:

  • Chấn thuộc Mộc, Canh ghép với Chấn, Hợi – Mùi phối hợp với Chấn → Canh, Hợi, Mùi thuộc Mộc.

  • Tốn thuộc Mộc, Tân ghép với Tốn → Tân cũng thuộc Mộc.

  • Càn thuộc Kim, Giáp ghép với Càn → Giáp cũng thuộc Kim.

  • Đoài thuộc Kim, Đinh ghép với Đoài, Tỵ – Sửu phối hợp với Đoài → Đinh, Tỵ, Sửu đều thuộc Kim.

  • Khảm thuộc Thủy, phối hợp với Quý → Quý thuộc Thủy. Thân – Thìn phối hợp với Khảm → cũng thuộc Thủy.

  • Ly thuộc Hỏa, phối hợp với Nhâm → Nhâm thuộc Hỏa. Dần – Tuất hợp với Ly → cũng thuộc Hỏa.

  • Khôn thuộc Thổ, Ất ghép với Khôn → Ất thuộc Thổ. Bính ghép với Cấn → Bính cũng thuộc Thổ.

Tượng trưng của Bát quái: Càn là Trời, Khôn là Đất, Cấn là Núi, Khảm là Nước, Đoài là Đầm nước, Ly là Lửa, Chấn là Sấm và Tốn là Gió.

Chu Dịch chỉ rõ: Vạn vật ra đời từ Chấn, Chấn là phương Đông, bình tại Tốn, Tốn là phương Đông Nam. Ly là sáng sủa, vạn vật gặp nhau nên Ly là phương Nam. Thánh nhân quay mặt về phương Nam để xét việc thiên hạ. Khôn là Đất – nơi nuôi dưỡng vạn vật. Đoài là giữa mùa Thu – là sự thu hoạch của vạn vật. Càn chỉ phương Tây Bắc, nơi âm dương sát kề nhau. Khảm là nước, là phương chính Bắc – nơi quy tụ của vạn vật. Cấn chỉ Đông Bắc – là nơi kết thúc và cũng là nơi khởi đầu của mọi việc.

Hồng phạm Ngũ hành phân biệt kháo trên như sau:

  • Giáp, Dần, Thìn, Tốn, Mậu, Khảm, Tân, Thân thuộc Thủy
  • Chấn, Cấn, Tỵ thuộc Mộc
  • Ly, Nhâm, Bính, Ất thuộc Hỏa
  • Đoài, Đinh, Càn, Hợi thuộc Kim
  • Sửu, Quý, Khôn, Canh, Mùi thuộc Thổ

Trên đây là loại Ngũ hành thông dụng. Ngoài ra còn nhiều loại Ngũ hành khác như: Tứ sinh Ngũ hành, Song sơn Ngũ hành, Huyền không Ngũ hành, Hướng thượng Ngũ hành, Nạp âm Ngũ hành, Địa chi Ngũ hành…

Cụ thể trong phong thủy:

  • Thế đất tròn là Kim,
  • Thế dài là Mộc,
  • Thế nhọn là Hỏa,
  • Thế vuông là Thổ,
  • Thế như sóng gợn là Thủy.

Khi chọn đất phải dựa vào Ngũ hành tương sinh để luận đoán. Tránh Ngũ hành tương khắc.

Ví dụ:

  • Khi Thủy gặp Thủy thường dẫn đến điều không tốt, gia đình dễ sinh dâm loạn.
  • Phương Bắc thuộc Thủy, nếu có nước ngấm vào nhà hay vào mồ thì không tốt.
  • Phương Nam thuộc Hỏa, nếu thế đất hình tam giác nhọn (Hỏa hình), thì Hỏa gặp Hỏa – phong thủy đoán rằng nơi đó dễ sinh kiện tụng.
  • Phương Tây thuộc Kim, nếu đất có dáng tròn (Kim hình), thì tài lộc sẽ ùn ùn kéo đến.
  • Phương Đông thuộc Mộc, nếu thế đất có hình dài (Mộc hình), thì gia chủ sẽ có con cái đông đúc, giàu sang phú quý.

Đối với mảnh đất làm nhà hay nơi huyệt táng:

  • Nếu lấy vị trí ngôi nhà hay ngôi mộ làm mốc phương vị thì phong thủy gọi:
    • Bên trái là Thanh Long,
    • Bên phải là Bạch Hổ,
    • Đằng trước là Chu Tước,
    • Miếng đất ngay sát nhà là Minh Đường,
    • Đằng sau là Huyền Vũ.

Tốt nhất:

  • Bên trái có dòng nước nhỏ chảy lững lờ đúng nghĩa Thanh Long (rồng xanh). Nước chảy bên trái theo dòng thì cha và con trai đều thành đạt.
  • Bên phải có Bạch Hổ (hổ trắng), lại có đường dài men theo rìa đất thì con gái trong nhà đảm đang sung sướng.
  • Tuy nhiên, Bạch Hổ nếu lại có đình, chùa, miếu mạo hoặc vũng nước đọng là điều kiêng kỵ – đất như vậy dễ sinh tử biệt trong nhà.
  • Trước nhà có ao hồ ôm đảo nhỏ hình tròn thì con gái trong nhà vẻ vang phú quý.
  • Chu Tước có sông dài bao bọc, làm thành án thư như hình cái bàn kê trước nhà, trước mộ – con cái trong nhà giàu sang hiển vinh. Thế đất này gọi là Thiên Cát (lầu gác nhà trời).
  • Sau nhà nếu thế đất đùn tròn như mây tụ, gọi là Huyền Vũ – có thế “bích dài” (đài biếc). Lưu ý, lộc không được để hở sâu, nếu không người ở trong nhà sẽ chết yểu.

Tổng kết:
Núi non, sông nước, thiên nhiên, gò đống, long mạch… sắp xếp trên mặt đất đã tạo nên họa hay phúc cho con người. Phong thủy có nhiệm vụ tìm ra chỗ ở, chỗ táng để người đã khuất và con cháu được hưởng điều lành, được phúc ấm.

Muốn có thế đất như ý, phải học lý khíđịa hình. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất trong phong thủy vẫn là:

“Tiên tích đức, hậu tầm long” – Trước hết phải tích đức, sau mới tìm long mạch.