Kinh nghiệm dựng nhà từ dân gian: Chọn ngày, chọn tuổi, chọn hướng

Kinh nghiệm xây dựng nhà trong dân gian

Dân gian rất coi trọng phong thủy nơi ở. Câu ngạn ngữ “Thứ nhất dương cơ (nơi ở), thứ nhì mồ mả” như là lời giáo huấn cho các thế hệ tiếp theo khi chọn nơi ở, khi làm nhà. Đó là những kinh nghiệm truyền đời của người dân phương Đông. Nhà ở đặc trưng trong dân gian Việt Nam là nhà của người Mường và người Việt. Chúng tôi xin giới thiệu dưới đây để các bạn tham khảo.

– Nhà ở của người Mường:
Trong tín ngưỡng dân gian, người Mường coi con rùa là vật linh thiêng, biểu tượng của sự trường thọ, sống lâu trăm tuổi. Do vậy,
nhà ở của người Mường, về hình dáng mô phỏng theo hình con rùa: nhà có 4 chân (cột), 4 cột mái, mái sườn là mai rùa, xương sống là đòn nóc, đầu là cửa chạn. Nhìn hình dáng bên ngoài, nhà có 4 mái, 2 mái trước có hình thang cân, hai mái đầu hồi có hình tam giác cân.

Về kết cấu, nhà sàn truyền thống có 2 vì kèo, 4 cột cái, 8 cột con, giữa 2 đầu cột nối với nhau gọi là quết (xà ngang). Có đòn tay nối các vì kèo với nhau, trên các đòn tay có các hàng rui nối từ nóc nhà xuống tận mái hiên, trên rui có các hàng mè nằm vuông góc với rui. Trên cùng, gác trên đầu các vì kèo (nóc nhà), là đòn nóc hay còn gọi là đòn dông. Nhà lợp bằng cỏ tranh đan lại thành từng phên dài từ 1,2 – 1,5m, có nơi lợp bằng lá cọ hoặc rạ đan thành từng phên giống cỏ tranh.

Nhà sàn của người Mường được phân làm 3 mặt bằng. Tầng trên cùng chứa lương thực, đồ dùng gia đình. Tầng hai là nơi sinh hoạt, nghỉ ngơi, tiếp khách, bếp lửa đặt ở đây, ở giữa nhà. Gầm sàn – tức tầng một – để dụng cụ sản xuất và nhốt gia súc. Nhà bố trí hai cầu thang: cầu thang chính ở đầu hồi bên phải nhà – nơi đây có nước rửa chân trước khi lên nhà; cầu thang phụ đặt ở đầu hồi bên trái nhà – chỉ dùng cho người trong gia đình khi đi làm về. Bếp đặt ở giữa nhà, trên bếp là bàn thờ. Khách và người nhà thường ngồi quanh bếp trên những chiếc ghế gỗ cao chừng 20 – 25 cm. Bếp luôn có than hồng.

Những yếu tố thần bí trong xây dựng nhà của người Mường được thể hiện qua việc chọn ngày lành để cất nóc, tức đặt đòn dông. Dự tính số lượng các đòn tay, rui, mè sao cho rơi vào chữ sinh, tránh chữ bệnh và tử (số 1 là sinh, số 2 là lão, số 3 là bệnh, số 4 là tử, số 5 lại quay về sinh…) như vậy số lượng đòn tay, rui, mè… phải là các số như: 5, 9, 13, 17…

– Nhà ở của người Việt:
Nhà của người Việt có hai loại: nhà tre và nhà gỗ. Nhà tre thấp lè tè, mái nằm ngang có độ dốc chừng 15–30 độ, cột có rất nhiều, cách nhau khoảng 2–2,5m; cột hiên chỉ cao hơn đầu người chừng 2m. Mỗi ngôi nhà nằm biệt lập, có cây vây xung quanh tạo bóng mát. Nhà thường quay hướng Nam; nắng sáng và nắng chiều chỉ chiếu xiên vào hai đầu hồi và hắt ánh sáng phản chiếu vào trong nhà. Phía trước hiên có tấm che nắng bằng tre, nên ánh nắng vào nhà rất dịu. Do vậy, trong nhà luôn vừa đủ ánh sáng, không gây cảm giác khó chịu.

Trong nhà chia làm ba khu: gian chính giữa thờ tổ tiên và tiếp khách; hai đầu nhà là hai gian buồng có cửa ra vào. Bếp được xây dựng riêng bên ngoài, phía trái và vuông góc với nhà chính. Nếu nhà chính quay hướng Nam thì bếp đặt phía Đông, hướng bếp nhìn ra phía Tây. Bởi lẽ, gió Nam và gió Đông Nam thổi tới sẽ bị vách sau bếp ngăn lại. Nếu bếp đặt bên phải nhà chính (quay mặt về hướng Đông), gió thổi vào sẽ làm lửa rơm cháy bùng, cơm canh đều hỏng. Đây là lý do phong thủy của người Việt xưa. Bếp cũng là nơi mọi người trong nhà tập trung trò chuyện, ăn uống, còn cửa nhà chính thì đóng. Cửa nhà chính chỉ mở khi có ngày lễ Tết, hiếu hỷ.

Về kích thước nhà:
Có tỉ lệ giữa chiều dài, chiều rộng, chiều cao, đơn vị đo cơ bản gọi là “trếng”, chiều dài của trếng tính bằng đơn vị thước ta (1 thước = 0,4m). Trếng là độ dài tính từ tim cột này tới tim cột kia; nếu là chiều cao cột thì tính từ đá tảng ở sàn nhà lên đến đầu cột. Độ dài của nhà thường có 3 kích thước sau:

  • Nhà ba hai: trếng dài 3 thước 2, cột cao 8 thước 6 – gọi là nhà tám sáu.
  • Nhà ba bảy: trếng dài 3 thước 7, cột cao 9 thước 1 – gọi là nhà chín một.
  • Nhà bốn hai: trếng dài 4 thước, cột cao 10 thước 5.

Những số đo trên được người xưa tính trùng hợp với số cát trong dãy 12 trực hay 12 thần của một ngày trong tháng, mỗi trực biểu thị cho một con số như: kiến (1), trừ (2), mãn (3)… Dãy trực như sau: kiến (1) – trừ (2) – mãn (3) – bình (4) – định (5) – chấp (6) – phá (7) – nguy (8) – thành (9) – thu (10) – khai (11) – bế (12) – rồi lặp lại từ kiến (1)… Trong các trực trên, các trực tốt là: kiến (1), định (5), chấp (6), thành (9), thu (10). Việc lựa chọn số đo sao cho tổng lại trùng với trực cát, ví dụ:

  • Nhà ba hai: 3 + 2 = 5 → trực định.
  • Nhà ba bảy: 3 + 7 = 10 → trực thu.
  • Nhà bốn hai: 4 + 2 = 6 → trực chấp.
  • Nhà tám sáu: 8 + 6 = 14 → 1 + 4 = 5 → trực định.
  • Nhà chín một: 9 + 1 = 10 → 1 + 0 = 1 → trực kiến.

Như vậy, việc lựa chọn kích thước ngôi nhà hay các bước gian được người Việt xưa tính toán cẩn trọng để rơi vào số đo cát, kỳ vọng ngôi nhà được an khang, thịnh vượng.

Về năm được tuổi làm nhà:
Người xưa khi làm nhà đều chọn tuổi, tránh năm Kim lâu và Hoang ốc. Căn cứ theo tuổi âm lịch, người xưa kiêng 4 loại năm Kim lâu. Những tuổi không phạm Kim lâu gồm: 25, 26, 28, 31, 34, 35, 37, 40, 43, 44, 46, 49, 52, 53, 55, 58, 59, 61, 62, 64, 67… Tuy nhiên, năm không phạm Kim lâu chưa chắc đã tốt cho gia chủ, do đó người ta còn xét thêm năm có phạm Hoang ốc hay không.

Từ hai điều kiện: năm không phạm Kim lâu và không phạm Hoang ốc, Tam sát, Ngũ tử…, những người vào độ tuổi âm lịch như: 26, 28, 31, 35, 37, 44, 46, 52, 58, 61, 67… làm nhà rất tốt. Qua đây, bạn có thể tự chọn cho mình những năm làm nhà đẹp.

Ngoài ra, còn có cách chọn tuổi làm nhà theo Cửu trạch. Theo thuyết này, mỗi người có thể rơi vào 4 trạch tốt là: Phúc, Đức, Bảo, Lộc, và 5 trạch xấu là: Bại, Hư, Khốc, Quỷ, Tử

Theo cách tính của Cửu trạch, những năm được tuổi làm nhà theo 4 trạch tốt là:

  • Phúc: 28, 37, 46, 55, 64
  • Đức: 29, 38, 47, 56, 65…
  • Bảo: 26, 35, 44, 53, 62…
  • Lộc: 27, 36, 45, 54, 63…

Phái này cũng cho rằng, tuy được năm trạch tốt nhưng cũng không được phạm Hoang Ốc. Nếu theo phái này, những năm làm nhà tốt nhất cho một người là: 26, 27, 35, 36, 37, 44, 45, 46, 53, 54, 55, 58, 62, 63, 64…

Trên thực tế, có người khi làm nhà không được tuổi, phạm năm Kim lâu, dân gian xưa thường mượn tuổi người được tuổi làm nhà để tiến hành khởi công, cất nóc, đổ mái. Khi xây dựng xong, lúc nhập trạch, chủ nhà làm một lễ mặn xin nhập trạch và cùng lúc tạ lỗi với thần linh, Thổ thần, Thổ địa…, sẽ được bình an vô sự.

Trường hợp nơi làm nhà không đúng phương vị như phong thủy quy định, nhưng nhà vẫn phải làm theo phương vị không như ý, thì dân gian xưa áp dụng phép “dời chỗ ở”. Ví như người có tuổi xây dựng nhà ở phía Nam thì lợi, xây dựng nhà phía Bắc thì không lợi, nhưng vẫn phải xây ở phía Bắc. Chủ nhân của ngôi nhà làm tạm chỗ ở nơi định xây là phía Bắc, rồi ở tạm đó một vài hôm, nhưng hướng cửa phải quay về phía Nam. Sau đó, gia chủ thực hiện xây dựng nhà mới ở phía Bắc mà vẫn đại cát, đại lợi.

Về thời giờ khởi công:

Được tuổi làm nhà, nhưng người xưa còn rất trọng ngày giờ khởi công, như động thổ, đổ móng, dựng cột, gác xà, đổ mái… Cách xác định ngày cát, tránh ngày hung, người xưa dựa vào thuật trạch cát qua một số lịch cổ của Trung Hoa cổ đại. Đáng chú ý nhất là cuốn Lịch thư dân dụng, được biên soạn vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc, hoàn chỉnh vào thời Đường Tống Trung Hoa cổ đại. Do thời xưa, hàng năm hoàng đế khâm định ngày lành ban bố cho thiên hạ, nên lịch này còn có tên là Hoàng lịch.

Trong Hoàng lịch, người xưa khuyên khi khởi công xây dựng, động thổ, đổ mái… cần chọn ngày có các sao tốt như:

  • Thiên đức, Nguyệt đức, Nguyệt đức hợp, Thiên xá, Thiên nguyện, Nguyệt âm, Tứ tướng, Thời đức, Tam hợp, Khai nhật, Bất tương, Trực tinh

Tránh các sao xấu như:

  • Nguyệt kiến, Thổ phù, Nguyệt phá, Bình nhật, Thu nhật, Bế nhật, Kiếp sát, Tai sát, Nguyệt hình, Nguyệt yểm, Đại thời, Thiên lại, Tứ phế, Ngũ mộ, Địa nang, Thổ vượng, Hỏa tinh, Thọ tử, Sát chủ

Kiêng ngày Dương công nguyệt kỵ:

Dân gian xưa còn kiêng làm nhà vào ngày Dương công nguyệt kỵ. Một năm có 13 ngày như vậy:

  • Tháng Giêng: ngày 13
  • Tháng 2: ngày 11
  • Tháng 3: ngày 9
  • Tháng 4: các ngày 7, 8 và 29
  • Tháng 5: ngày 27
  • Tháng 6: ngày 25
  • Tháng 7: ngày 23
  • Tháng 8: ngày 21
  • Tháng 9: ngày 19
  • Tháng 10: ngày 17
  • Tháng 11: ngày 15
  • Tháng Chạp: ngày 13

Về giờ khởi công:

Dân gian thường chọn theo giờ Hoàng đạo. Trong một ngày có 6 giờ Hoàng đạo, còn gọi là giờ tốt của vòng sao Thanh long, được tính như sau:

  • Ngày Tý, Ngọ: giờ Thân (Thanh long), Dậu (Minh đường), Dần (Kim quỹ), Mão (Thiên đức), Tỵ (Ngọc đường), Thân (Tư mệnh)
  • Ngày Dần, Thân: giờ Tý (Thanh long), Sửu (Minh đường), Thìn (Kim quỹ), Tỵ (Thiên đức), Mùi (Ngọc đường), Tuất (Tư mệnh)
  • Ngày Mão, Dậu: giờ Dần (Thanh long), Mão (Minh đường), Ngọ (Kim quỹ), Mùi (Thiên đức), Dậu (Ngọc đường), Tý (Tư mệnh)
  • Ngày Thìn, Tuất: giờ Thìn (Thanh long), Tỵ (Minh đường), Thân (Kim quỹ), Dậu (Thiên đức), Hợi (Ngọc đường), Dần (Tư mệnh)
  • Ngày Tỵ, Hợi: giờ Ngọ (Thanh long), Mùi (Minh đường), Tuất (Kim quỹ), Hợi (Thiên đức), Sửu (Ngọc đường), Thìn (Tư mệnh)

Các giờ Hoàng đạo – Thanh long trên đều tốt cho mọi việc, đặc biệt là trong xây dựng, khởi công, tu tạo. Khi đổ mái, dân gian xưa thường chọn giờ Thanh long và Tư mệnh, coi đó là hai loại giờ tốt nhất.

Tránh giờ xấu:

Chọn được giờ tốt nhưng người xưa còn kiểm tra lại xem có trùng với hai loại giờ bị coi là rất xấu là:

  • Giờ Sát chủ
  • Giờ Thọ tử

Nếu phạm phải hai giờ này, người xưa cho rằng mọi việc đều không thành, nhất là khởi công xây dựng và đổ mái.

Cách tính giờ xấu như sau:

Giờ Sát chủ:

  • Tháng Giêng, Tháng 7: giờ Dần
  • Tháng 2, Tháng 8: giờ Tỵ
  • Tháng 3, Tháng 9: giờ Thân
  • Tháng 4, Tháng 10: giờ Thìn
  • Tháng 5, Tháng 11: giờ Dậu
  • Tháng 6, Tháng Chạp: giờ Mão

Giờ Thọ tử: (Tính theo ngày)

  • Ngày Tý: giờ Sửu
  • Ngày Sửu: giờ Ngọ
  • Ngày Dần, Thân, Mão, Dậu: giờ Mão
  • Ngày Tỵ, Hợi: giờ Mão và Ngọ
  • Ngày Thìn, Tuất: giờ Tỵ