Phong tục tang lễ truyền thống Việt Nam

VIỆC TANG

“Thọ Mai gia lễ” là gì?
Thọ Mai gia lễ là gia lễ của nước ta, có dựa theo Chu Công gia lễ tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc nhưng không rập khuôn. Mặc dù gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời, nhưng khi trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay từ Bắc chí Nam vẫn còn phổ biến áp dụng, nhất là trong tang lễ.
Tác giả của Thọ Mai gia lễ là Hổ Sỹ Tân (1690-1760), hiệu Thọ Mai, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến sĩ năm 1721 (năm thứ 2 triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
Trong Thọ Mai gia lễ, có trích dẫn một phần của Hồ Thương thư gia lễ. Hồ Thương thư tức Hồ Sỹ Dương (1621-1681), cũng người làng Hoàn Hậu, đỗ Tiến sĩ năm 1652 tức năm thứ 4 triều Khánh Đức, làm quan đến chức Thương thư Bộ Hình, tước Duệ Quận công.

Ba cha, tám mẹ là những ai?
Theo Thọ Mai gia lễ:
Ba cha là:
(1) Thân phụ: Cha sinh ra mình.
(2) Kế phụ: Sau khi cha chết, mẹ lấy chồng khác, chồng mới của mẹ là kế phụ, hay bố dượng.
(3) Dưỡng phụ: Bố nuôi.

Tám mẹ là:
(1) Đích mẫu: Vợ cả của bố.
(2) Kế mẫu: Khi còn nhỏ mẹ đã mất, cha lấy vợ khác để nuôi mình.
(3) Từ mẫu: Mẹ chết từ khi mình còn nhỏ, cha sai người vợ lẽ nuôi mình, cho bú mớm.
(4) Dưỡng mẫu: Mẹ nuôi (cha mẹ nghèo cho mình để người khác nuôi).
(5) Xuất mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng bị cha rẫy ra.
(6) Giá mẫu: Là mẹ sinh ra mình, nhưng khi cha mất thì đi lấy chồng khác.
(7) Thứ mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng là vợ lẽ của cha.
(8) Nhũ mẫu: Mẹ vú, cho mình bú mớm từ khi còn bé.

Trên đây là định nghĩa theo Thọ Mai gia lễ, đó là chưa đề cập đến những người đã lấy vợ lấy chồng thì cha mẹ vợ, cha mẹ chồng cũng như cha mẹ mình. Như vậy, còn ba loại nhạc phụ và tám loại nhạc mẫu. Tất cả phải là 6 cha, 16 mẹ.

Chúc thư là gì?
“Chúc” là lời dặn dò, phó thác. Chúc hay “Di chúc” là lời dặn của người chủ gia đình, người lãnh đạo đất nước trước khi mất. Chúc thư, di chúc viết thành văn bản có giá trị hành chính, pháp lý. Nếu không biết chữ, hoặc yếu quá không viết được nữa thì nhờ người khác viết, đọc lại cho nghe rồi ký tên hoặc điểm chỉ vào. Di chúc của nhà vua gọi là di chiếu.
Nội dung chính của chúc thư thường là việc chia gia tài. Nhà có bao nhiêu ruộng đất, nhà cửa, chia cho con trai con gái, ai được hưởng khoảnh nào, mây mẫu, mây sào, ở đâu, còn lại bao nhiêu dành cho mẹ làm của dưỡng lão, giao cho người nào chăm nom. Nếu còn nợ làng, nợ họ cũng giao phó cho con nào phải đòi, phải trả. Quy định dành bao nhiêu ruộng hương hỏa, giao cho con trưởng hoặc cháu đích tôn. Di chiếu của nhà vua giao cho ai là đại thần có nhiệm vụ phò thái tử lên ngôi. Nếu ngôi thái tử chưa định thì truyền chỉ cho hoàng tử nào nối ngôi…
Ngày nay, nam nữ bình đẳng, nếu cha mất trước đã có mẹ nắm toàn bộ quyền hành. Trước đây, người mẹ, người vợ sau ba năm tang chồng nếu muốn tái giá thì đi tay không, nếu ở lại nuôi con cũng không được nắm toàn quyền, còn phải lệ thuộc vào các ông chú, ông bác trong họ. Nếu còn có nợ thì phải trả hết. Vì vậy, có những gia đình giàu có nhưng vô phúc, bạc đức: Cha mẹ nằm xuống anh em đùn đẩy nhau, chưa lo việc chôn cất, chỉ chăm chăm tranh giành tài sản. Vì vậy, khi còn khỏe, các cụ đã phải lo xa: chia gia tài trước, định trách nhiệm sẵn, mua sắm bộ hậu sự (áo quan), có người còn dặn trước cả việc chôn cất, tang chế, cỗ bàn, đình đám…
Tóm lại, có thể hiểu chúc thư như di chúc ngày nay.

Tang là gì?

Thời xưa, dù làm quan đến chức gì, theo phép nước, hễ cha mẹ mất đều phải về cư tang ba năm, trừ trường hợp đang bận việc quân nơi biên ải hay đi sứ nước ngoài. Lệ này không quy định đối với binh lính và nha lại. Nếu ai vì tham quyền cố vị, giấu giếm không khai báo để về cư tang, bị đàn hặc vì tội bất hiếu, sẽ bị triều đình xử phạt biếm truất. Trong thời gian cư tang, lệnh vua không đến cửa.
Ba năm cư tang là ba năm chịu đựng gian khổ, nhẫn nhục, không dự mọi cuộc vui, không dự lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoài chén rượu cúng cha mẹ), không nghe nhạc vui, không ngủ với vợ hoặc nàng hầu, trừ trường hợp chưa có con trai để nối dõi tông đường, ngoài ra ai sinh con trong thời kỳ này cũng bị coi là bất hiếu. Không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ đi hia, thường đi chân không, cùng lắm chỉ đi guốc mộc hoặc giày có.
Dù làm đến tể tướng trong triều, khi khách đến viếng cha mẹ mình, bất kể sang hay hèn cũng phải cung kính chào mời và lạy tạ (hai lạy hoặc ba vái dài). Khi ra đường, không sinh sự với bất kỳ người nào. Ở trong nhà, đối với kẻ ăn người ở cũng không được to tiếng.
Ba năm sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung kính với khách bạn, để tỏ lòng thành kính với cha mẹ.
Ngày nay không còn lệ cư tang, nhưng chúng ta nên biết qua lệ cư tang của ông cha ta ngày xưa, hậu sinh có thể học được nhiều điều trong thái độ ứng xử.

Vì sao có tục mũ giai, đai chuôi và chống gậy?

Tục đội mũ rơm quấn thật to quanh đầu, thắt lưng bằng dây gai, dây chuối ngày nay đã lỗi thời, nhiều nơi đã bãi bỏ; còn tục chống gậy chỉ áp dụng đối với con trai tang cha (gậy tre), tang mẹ (gậy vông) vẫn còn hiện hữu ở nhiều địa phương.

Nguyên do: Đời xưa, đường đi lại còn hẹp, có khi còn phải leo núi cao, người mất được chôn cất ở nơi xa khu dân cư, trong rừng núi, có nơi chôn ở triền núi đá có nhiều hang động. Đã có trường hợp, người con vì quá thương xót cha mẹ, khóc lóc thảm thiết, đến nỗi không kể gì đến sinh mạng của mình, đập đầu vào vách đá, hoặc khi leo núi đi về vì thương cảm quá mất cả thăng bằng ngã lăn xuống vực. Để tránh tình trạng trùng tang thảm hại đó, người ta mới đặt ra lệ phải quấn quanh đầu những vật liệu mềm, xốp để nếu va vấp thì không gây tổn thương và đặt ra lệ phải chống gậy để đi lại an toàn hơn. Vật liệu dễ kiếm nhất, giàu nghèo ai cũng có thể tự liệu được và ở đâu cũng có thể kiếm được để làm chất đệm, đó là rơm, lá chuối, dây gai, dây đay. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của một số người, dần dần trở thành phong tục phổ biến.

Vì ngày thường lao động ở đồng ruộng, núi rừng hoặc đi lại đều mặc quần áo gọn bó vào người, đến khi có tang tế phải mặc dài rộng, dễ vướng gai góc nên phải có dây đai, tục đó cũng xuất xứ từ việc tránh nạn trùng tang.

Ngũ phục là gì?

Theo Thọ Mai gia lễ, có năm hạng tang phục tùy theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ:

Đai tang: trảm thôi và tề thôi

    • Quần áo xòe gấu gọi là trảm thôi: con để tang cha.
    • Quần áo không xòe gấu gọi là tề thôi: con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất.
    • Thời hạn: 3 năm, rồi sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai).
    • Áo xô, khăn xô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang). Nếu cha mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai giải dài ngắn lệch nhau.
    • Con trai chống gậy: tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quan đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng.

Ngày nay nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục này. Ở thành phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế “châu Âu”.

  • Con trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ (kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).
  • Vợ để tang chồng.
  • Nếu con trai trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang thay cha.Cơ niên: để tang một năm

Từ cơ niên trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng, không gậy.

    • Cháu nội để tang ông bà nội.
    • Con riêng của vợ để tang bố dương nếu bố dương có công nuôi và ở cùng, nếu không ở cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng.
    • Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng đã bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
    • Chồng để tang vợ cả, có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
    • Cháu để tang bác trai, bác gái, chú, thím và cô ruột.
    • Anh, chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang 1 năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng).
    • Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đẻ nhưng đã đi làm con nuôi nhà người.
    • Chú, bác, thím, cô ruột để tang cho cháu (con anh em ruột).
    • Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).
    • Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu để tang các con chồng; thứ mẫu để tang con mình và con chồng như nhau, đều 1 năm. Tang con dâu cả cũng 1 năm.
    • Con dâu để tang mẹ kế của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
    • Con rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã lấy vợ khác cũng vậy).
    • Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).

Đai công: để tang 9 tháng

    • Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho nhau.
    • Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
    • Chú, bác, thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột).
    • Cháu dâu để tang ông, bà của chồng, chú, bác, thím ruột hoặc cô ruột của chồng.
    • Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
    • Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột.

Tiểu công: để tang 5 tháng

    • Chắt để tang cụ (hoàng tang: chít khăn vàng).
    • Cháu để tang anh, chị, em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô).
    • Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha (nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang 3 năm như mẹ đẻ).
    • Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh, chị em con chú, bác ruột của cha).
    • Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau.
    • Anh chị, em họ 4 đời để tang cho nhau.
    • Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang).
    • Chú bác ruột để tang cho cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
    • Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cho cháu (tức là cháu nội của anh em ruột).
    • Ông bà nội để tang cho vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
    • Cháu để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
    • Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
    • Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím).

Tỳ ma phục: để tang 3 tháng

  • Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại: hồng tang – chít khăn đỏ).
  • Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng to bá thúc phụ mẫu và tằng to cô, tức là anh em ruột với cụ nội).
  • Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
  • Cháu để tang cô bá (chị em con chú con bác ruột với bố).
  • Con để tang bố dương (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
  • Con để tang nàng hầu của cha.
  • Con để tang bà vú (cho bú mớm).
  • Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú cháu bác với cha).
  • Chồng để tang vợ lẽ, nàng hầu.
  • Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau.
  • Bố mẹ vợ để tang con rể.
  • Ông bà ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại.
  • Ông của chồng để tang cháu dâu.
  • Cụ để tang chắt nội.
  • Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà.
  • Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau.
  • Cậu ruột để tang vợ của cháu trai.
  • Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng.
  • Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
  • Chắt dâu để tang cụ nội của chồng.
  • Cụ để tang chắt nội trai gái.
  • Ông bà để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác.

Ngoài ngũ phục trên còn có một số quy định:
Tang bên cha mẹ nuôi:

  • Kỵ bên cha nuôi: 3 tháng; cụ bên cha nuôi: 5 tháng, ông bà: 1 năm.
  • Cha mẹ nuôi: áo băng gau, hoặc xo gau, tang 3 năm có cầm gậy.
  • Từ ông bà trở lên: nếu mình thừa trọng cũng xo gau 3 năm.
  • Ông bà sinh ra mẹ nuôi: tang 5 tháng.

Tang họ nhà mình (đã là con nuôi người khác, để tang bên họ mình):

  • Ông bà sinh ra cha: 9 tháng.
  • Cha mẹ sinh ra mình: 1 năm có gậy.
  • Bác trai, bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha: 9 tháng. Cô đã xuất giá: 5 tháng.
  • Anh chị em ruột: 9 tháng; chị dâu, em dâu: 3 tháng; chị em đã xuất giá: 5 tháng.
  • Ông bà sinh ra mẹ thì 3 tháng.

Xét trong lễ có nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng, song đi lấy chồng, hoặc phải chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại không có, trở về nhà cũng như chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng.
Nếu đang để tang cha mẹ được 1 năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang cha mẹ 3 năm; hoặc để tang cha mẹ được 1 năm đã trừ phục đoạn thì chẳng được để lại 3 năm; dù phải chồng rẫy trước, sau mới để tang cha mẹ chưa đủ 1 năm mà chồng mới gọi về thì chẳng nên về vội, phải nên tang trọn 3 năm.

Trường phục: có 3 loại:
(1) Trưởng trường: từ 16-19 tuổi
(2) Trung trường: từ 12-15 tuổi
(3) Hạ trường: từ 8-11 tuổi
(Đều lấy thứ tự giáng một bậc)
Ví dụ: trai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dù còn trẻ cũng không thể gọi là trường được, như vốn mình phải tang 1 năm trưởng trường giáng xuống 9 tháng, trung trường giáng xuống 7 tháng, hạ trường giáng xuống 5 tháng.
Như vốn tang 9 tháng, trưởng trường giáng 7 tháng, trung trường giáng 5 tháng, hạ trường giáng 3 tháng, các trường hợp khác đều như thế, suy ra.

Cha mẹ có để tang con không?
Tang phục thể hiện nghĩa tình, có phân biệt thân sơ. “Họ đương 3 tháng, láng giềng 3 ngày” thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Theo Thọ Mai gia lễ, không những người thân mà người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang và không chỉ cha mẹ để tang con mà ông bà, cụ kỵ cũng để tang hàng cháu, hàng chắt.
Thọ Mai gia lễ quy định như vậy nhưng ở một số địa phương Bắc Bộ quan niệm “phụ bất bái tử” (cha không lạy con), con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là bất hiếu, con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã trôn nơ đòi, chẳng những cha mẹ không để tang con mà khi khâm liệm con còn phải quấn trên đầu tử thi một vòng khăn trắng. Nếu người chết là phụ nữ mà tứ thân phụ mẫu vẫn còn thì phải quấn đến hai vòng, có nghĩa là ở dưới cõi âm cũng để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ đang ở dương trần.

Tại sao có tục kiêng không để cha mẹ đưa tang con?
Tử biệt sinh ly ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, cha mẹ già yếu từ trần, con báo hiếu cha mẹ, đưa tang bố mẹ là lẽ thường tình. Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh. Giờ phút hạ huyệt là giờ phút đau thương đến cực điểm, có nhiều ông bố, bà mẹ đã bị ngất lịm. Đã có nhiều trường hợp mẹ chết luôn bên huyệt chôn con. Hơn nữa, ngày xưa, phương tiện và thuốc thang cấp cứu khó khăn, không cho cha mẹ đưa tang con để vơi bớt nỗi đau buồn và để tránh nạn trùng tang là đúng.
Chẳng những cha mẹ mà các ông bà già trong nội thân, sức đã tàn cũng không được dự đưa tang, sơ ảnh hưởng đến sức khỏe.

Đám tang trong ngày Tết, tính liệu ra sao?
Ngày Tết Nguyên đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mọi sầu riêng để hòa chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng không đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, hàng xóm; ngược lại bà con hàng xóm lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 hoặc mồng một Tết thì sao? Nếu ngày 30 tháng Chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, nếu để sang năm mới thì có nhiều điều bất tiện. Đa số các gia đình kiêng để sang ngày mồng một đầu năm. Trường hợp chết đúng vào ngày mồng một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi việc để sáng mồng hai làm lễ phát tang.

Cưới bôn tang là gì?

Đó là trường hợp “ưu hỷ trùng phùng” – vui và buồn dồn vào một lúc. “Sinh hữu hạn, tử vô kỳ”, cuộc đời có hạn nhưng ai biết trước chết vào lúc nào. Theo lễ nghi, khi trong nhà còn tang, trên đầu còn vành khăn trắng, nhất là đại tang, thì tránh mọi cuộc vui. Nhưng lễ cưới đã chuẩn bị sẵn, nếu quá câu nệ thì gay go cho hai gia đình. Nhiều trường hợp tình duyên đôi lứa bị dang dở, nhất là các gia đình cả đôi bên bố mẹ đều đã già, có khi đợi đến bảy tám năm sau chưa hết tang. Vì vậy, tục lệ xưa cũng có khoản “cưới bôn tang”, tức là “cưới chạy tang”.

Khi đó, người chết nằm tạm trên giường, đắp chăn chiếu lại, chưa nhập quan; hoặc gia đình có thể tự làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ thành phục. Theo nghi lễ, nếu chưa thành phục thì trong nhà chưa ai được khóc. Hàng xóm có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận “tối lửa tắt đèn có nhau”, coi như người nhà.

Trong khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị gấp đám cưới, cũng làm đủ cả lễ đưa dâu, đón dâu, yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng… nhưng lễ vật rất đơn sơ, thành phần giản lược, bó hẹp trong phạm vi gia đình và một vài thân nhân. Khách, bạn đã mời cũng miễn, sẽ thông cảm sau. Công việc cưới gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang. Cô dâu, chú rể trở thành thành viên của gia đình, chịu tang chế như mọi con cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngày, từ sáng đến trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng được.

Người dự đám tang nên như thế nào?

Dù thân hay sơ, đã đến dự đám tang phải nghiêm túc, biểu lộ lòng thành kính đối với người đã khuất, tình ưu ái đối với tang quyến. Thật là bất lịch sự nếu cười nói, đùa giỡn trong lúc tang chủ đang đau buồn.

Ở nông thôn, nhiều nơi còn lệ tục cỗ bàn ăn uống linh đình trong đám tang, thực không hợp tình, hợp cảnh. Đành rằng việc ăn uống là không tránh khỏi, nhưng chỉ nên hạn chế trong số người đến giúp việc và thân nhân ở xa về. Đối với bà con, làng xóm, khách, bạn thì tang lễ không phải là dịp để “trả nợ miệng”.

Nếu như chưa bỏ được hủ tục rượu chè đình đám thì trong tang lễ, mọi người cũng nên tự kiềm chế mình, giúp được việc gì thì tận tình giúp đỡ, không tiện về nhà ăn cơm thì cũng không nên hạch sách, trách móc.

Cũng cần lưu ý các bạn trẻ: Khi đi dự đám tang không nên ăn mặc lòe loẹt, lố lăng, hớ hênh, như vậy rất không hợp cảnh và sẽ gây khó chịu cho nhiều người.

Đi đường gặp đám tang nên như thế nào?

Hồi mới tiếp quản Thủ đô (năm 1954), chúng tôi đã chứng kiến nhiều đám tang rất nghiêm túc, trật tự. Mọi người đi đường đều tự giác tuân thủ kỷ cương xã hội, trật tự giao thông.

Nếu gặp đám tang ngược chiều, không ai bảo ai, dù vội đến đâu cũng đều xuống xe, kể cả người đi xe máy hay xích lô đều ngả mũ nón, dắt bộ qua đám tang rồi mới lên xe. Ôtô thì chậm lại, không bóp còi.

Nếu đi cùng chiều, không tiện xuống xe thì đi chậm lại và ngả mũ.

Thân nhân đi tiễn đưa đều tự giác đi có hàng lối, trật tự. Lái xe đám tang ăn mặc theo lễ phục, tác phong cử chỉ rất nghiêm trang.

Người sắp chết có những dấu hiệu gì báo trước?

Thật kỳ lạ, xưa nay đã ai chết hai lần đâu mà biết trước để rút kinh nghiệm, nhưng có những cụ cao tuổi có khả năng “tri thiên mệnh”, biết trước được ngày mất của mình, mặc dù ngày hôm trước vẫn mạnh khỏe. Thậm chí có người còn tính trước được giờ mất, đánh điện cho con cháu ở xa về. Trong trường hợp đó, gia đình phần nào đã chủ động chuẩn bị tang lễ, nhưng những trường hợp như vậy rất ít.

Đối với những người già yếu, có những dấu hiệu báo trước giờ hấp hối có thể quan sát được:

  • Xem thần sắc: Chủ yếu xem hai đáy mắt còn tinh anh nữa không hay đã đục mờ.
  • Sờ chân tay: Xem còn nóng hay đã lạnh, người sắp chết thường lạnh dần từ chân lên. Có người còn nhận biết mình đã chết đến đâu.
  • Mạch rất trầm: Có khi người còn sống nhưng không bắt được mạch. Đối với người suy tim, sờ tưởng như tim đã ngừng đập, nhưng vì đập yếu nên không phát hiện được.
  • Để một ít bông vào lỗ mũi: Nếu bông không còn động đậy tức là đã tắt thở.

Có người đau ốm lâu dài, bỗng nhiên khỏe lại và rất tỉnh táo – nhiều khi đó là dấu hiệu của ngọn đèn hết dầu loé sáng lên rồi tắt ngấm. Các cụ già thường bỏ ăn, hoặc rất muốn ăn nhưng ăn được rất ít trước khi mất.

Cũng có trường hợp, mệnh đã tuyệt nhưng có lẽ vì nuối con nuối cháu ở xa chưa gặp được, hoặc do được bồi bổ, sâm hồi dương với hy vọng có thể qua khỏi hoặc kéo thêm ít giờ để tránh ngày xấu như trùng tang, trùng phục… nên có thể kéo dài thêm chút ít.

Thân nhân hấp hối, người nhà cần làm gì?

  • Dời người sắp mất sang phòng chính tẩm, đầu hướng về phía đông.
  • Hỏi xem có dặn dò trăng trối gì không.
  • Đặt thụy hiệu (tức tên hèm), rồi hỏi người đó có đồng ý không.
  • Luôn luôn có người túc trực bên cạnh.
  • Người có theo tôn giáo thì làm lễ cầu nguyện theo phép của từng tôn giáo.
  • Chuẩn bị mọi thứ để tắm gội (làm lễ mộc dục) và khâm liệm (lễ nhập quan).

Sau khi thân nhân mất, gia đình cần làm những gì?

Chúng tôi chỉ nêu những việc cần làm đối với trường hợp già yếu, mất tại nhà theo phong tục cổ truyền. Trường hợp mất tại bệnh viện hoặc mất dọc đường, quán trọ, chết vì tai nạn, gươm súng, xe cộ, rắn độc, thủy hỏa tai… không đủ điều kiện để thực hiện toàn bộ thao tác và nghi lễ, vậy nên châm chước, tùy nghi vận dụng:

  1. Lễ mộc dục (tắm gội)
    Lúc tắm gội cho người vừa mất thường để sẵn: một con dao nhỏ, một vuông vải (khăn), một cái lược, một cái thìa, một ít đất ở ông đầu rau, một nồi nước ngũ vị hương và một nồi nước nóng khác. Lúc tắm, vây màn cho kín, tang chủ quỳ xuống khóc; người hộ việc cũng quỳ rồi cáo từ rằng: “Nay xin tắm gội để sạch bụi trần, xong phục xuống ông.” Cha thì con trai vào tắm, mẹ thì con gái vào tắm.

Lấy vuông vải đắp vào nước ngũ vị, lau mặt, lau mình người vừa chết cho sạch rồi dùng lược chải tóc, lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn khác lau hai tay hai chân, lại lấy dao cắt móng tay móng chân, mặc quần áo cho chỉnh tề. Móng tay móng chân gói lại để vào trong quan tài: móng tay để trên, móng chân để dưới; dao, lược, thìa và nước ngũ vị đem đi chôn. Rước thi thể đặt lên giường.

      2. Sau lễ mộc dục, thời gian chưa nhập quan
Đắp chăn hoặc chiếu, buông màn, đặt một chiếc ghế con phía trên đầu, trên đó đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng một đôi đũa trên bát cơm và thắp hương. Có địa phương còn có tục để thêm một con dao trên bụng (có lẽ để trừ tà ma hay “quỷ nhập tràng”).

  1. Lễ phạn hàm
    Lễ này theo tục xưa là bỏ gạo và tiền vào miệng người đã khuất để tránh tà ma, ác quỷ đến cướp đoạt, tiễn vong linh đi đường xa được siêu thoát. Ngày nay, nhiều nơi đã bỏ lễ này, hoặc thay thế bằng cách may một cái túi, trong túi đựng một ít tiền, gạo và một vài đồ lặt vặt mà khi còn sống, người đó thường dùng đến.
    Theo Thọ Mai gia lễ, lễ này được tiến hành như sau:
    Lấy ít gạo nếp xát cho sạch, ba đồng tiền mài cho sáng (nhà giàu thì dùng vàng hoặc viên ngọc trai).
    Tang chủ vào khóc quỳ, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ rằng: “Nay xin phạn hàm, phục duy hâm nạp.” Người chấp sự lần lượt xướng: sơ phạn hàm, tái phạn hàm, tam phạn hàm. Tang chủ ba lần, mỗi lần xúc một ít gạo và một đồng tiền tra vào miệng bên phải, rồi đến bên trái, cuối cùng là vào giữa. Xong, bóp miệng lại, phủ mặt như cũ.
  2. Lễ khâm liệm nhập quan
    Các con vào, con trai đứng bên trái, con gái đứng bên phải. Người chấp sự xướng: tự lập (đứng gần vào), cử ai (khóc cả lên), quỳ. Chấp sự cũng quỳ mà cáo từ rằng: “Nay được giờ lành, xin rước nhập quan. Cẩn cáo.” Xong lại xướng: phú phục (lạy xuống), hưng (dậy), bình thân (đứng thẳng).
    Sau đó, các con cháu tránh ra hai bên, người giúp việc quay vào, đều cầm tạ quan nâng lên để đưa người vào một cách êm ái, đặt cho chính giữa quan tài. Nếu có hở chỗ nào, cần lấy áo cũ của người mất để lót cho đầy đủ, rồi gấp dưới lên đầu trước, bên trái gấp trước, bên phải gấp sau, trên đầu gấp sau cùng, sơn nẹp đóng lại.
    Cần lưu ý: những quần áo của người đang sống, hoặc quần áo từng mặc chung với người mất thì kiêng không được bó vào áo quan.

Đồ khâm liệm: Nhà giàu dùng nhiều vóc nhiễu, tơ, lụa; nhà thường dùng vải trắng may làm đại liệm (1 mảnh dọc, 5 mảnh ngang) hoặc tiểu liệm (1 mảnh dọc, 3 mảnh ngang). Ngày trước quy định rõ đại liệm hay tiểu liệm vì vải khổ nhỏ, ngày nay dùng vải khổ rộng, miễn kín chân, tay, đầu, gót là được.

Tục ta nhiều người tin theo thầy phù thủy, trong quan tài thường có mảnh ván đục sao Bắc Đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan thường chọn giờ, tránh tuổi, rồi dùng bùa dán ở trong và ngoài quan tài. Có người cho rằng chết phải giờ xấu thì bó cỗ bài tổ tôm, quyển lịch hoặc tàu lá gồi để trấn áp ma quỷ.

Mọi việc xong thì sơn gắn quan tài cho kỹ càng, đặt ở chính giữa gian giữa. Nếu nhà còn người tôn hơn thì đặt sang gian cạnh.

  1. Lễ thiết linh (sau khi nhập quan)
    Là lễ thiết lập linh vị, đặt bàn thờ tang.
    Khi chưa chôn, lấy lễ thờ người sống mà làm, nên mỗi lần lạy chỉ lạy hai lạy. Trong linh vị và văn khấn dùng chữ “cố phụ”, “cố mẫu” thay cho “hiển khảo”, “hiển tỷ”.
  2. Lễ thành phục
    Tức là con cháu mặc đồ tang để cúng tế và đáp lễ khi khách đến viếng.
    Trước khi thành phục, nếu có khách đến thì người chủ tang chưa ra tiếp mà người hô tang thay mặt tiếp khách.
    Sau lễ thành phục mới chính thức phát tang. Sau đó thân bằng cố hữu, hàng xóm mới đến phúng viếng.

Tại sao có tục hú hồn trước khi nhập quan?
Vì đã có những trường hợp bị choáng, ngất, bất tỉnh nhân sự, người ta dùng mọi thủ thuật để kích thích thì hồi tỉnh, trong đó có thuật hú hồn, hú vía. Cũng có trường hợp đã tắt thở, tưởng là chết rồi, nhưng sau một thời gian bỗng nhiên sống trở lại. Do đó, với một hy vọng dù mỏng manh, người sống tiếc thương muốn cứu vãn nên cầm chiếc áo quan của người đã tắt thở, leo lên mái nhà chỗ cao nhất hú: “Ba hồn bảy vía ông” hoặc “Ba hồn chín vía bà” về nhập xác. Hú ba lần không được thì đành lòng chịu khâm liệm, nhưng vẫn tin rằng như vậy hồn đỡ vất vưởng, biết tìm đường về nhà (khâm liệm xong vẫn chưa nỡ đóng chốt áo quan). Đây là một phong tục nhằm thỏa mãn tâm linh.

Trường hợp chết đã cứng lạnh, người co rúm không bỏ lọt áo quan thì làm thế nào?
Theo kinh nghiệm dân gian: hơ lửa và nắn dần cho thẳng ra, hoặc dùng cồn, rượu xoa bóp. Nếu vẫn còn cứng thì có thuật dùng hai chiếc đũa cả để hai bên mép áo quan rồi cho thi hài lọt xuống dần. Khi thi hài đã lọt vào áo quan rồi, phải cắt bỏ những dây buộc chân, buộc tay, buộc vai, buộc mông để người chết có tư thế nằm thoải mái.

Người xưa dùng những vật gì lót vào áo quan?
Trong các ngôi mộ cổ khai quật được, ngoài các đồ trang sức của người chết, phía trong áo quan thường có lót lá chuối, giấy bản, chè búp, bỏng nếp hoặc khăn áo vóc nhiễu… Trong quan, ngoài quách, giữa quan và quách đổ cát vàng. Các thứ đó đều là những chất hút ẩm và ngăn khí hôi hám khỏi bốc ra ngoài. Nhất là ngày xưa, chết xong chưa chôn ngay, còn phải sắm lễ vật đầy đủ, tế khí, họ hàng, làng xóm xa gần phúng viếng linh đình, phải chọn ngày, chọn đất mới làm lễ an táng.

Tại sao phải để phòng “quỷ nhập tràng”?
Theo quan niệm xưa, “quỷ nhập tràng” là hiện tượng xác chết tự nhiên bật dậy. Hiện tượng này rất hiếm nhưng đã từng xảy ra, do đó trong phong tục có sự kiêng kỵ để phòng xa.
Gọi là “quỷ nhập tràng” nhưng thực ra không có ma quỷ nào nhập vào xác chết. Nguyên nhân là do điện tích âm tích tụ trong thi thể người mới chết, gặp phải luồng điện dương cực mạnh thì cuốn hút nên xác chết tự nhiên bật dậy.
Vì vậy, theo quan niệm dân gian, khi trong nhà có người mới chết, việc kiêng kỵ nhất là không để cho mèo bất thần nhảy qua xác chết (người ta phải canh giữ, nhốt mèo lại).
Đã có trường hợp chén rượu hắt vào xác chết, hay giọt nước mắt có hơi ấm nhỏ vào xác chết cũng tạo thành luồng khí, có thể khiến xác chết bật dậy rồi ngã xuống ngay.
Hiện tượng xác chết “đuổi theo” người sống: Xác chết không thể bước đi mà do hơi nóng của người sống cuốn hút, hoặc trường hợp có luồng không khí đối lưu cân bằng khi xác chết ở tư thế đứng song song với người sống. Việc dỡ ngói hay tranh trên mái nhà để ánh sáng mặt trời trực tiếp rọi vào cũng nhằm triệt tiêu hiện tượng cuốn hút đó.

Sau lễ thành phục, trước khi an táng phải làm những gì?

Ngày nay, thủ tục đơn giản hơn; để giữ vệ sinh, không nên để quá 24 giờ. Thời xưa, có những nhà để người mất trong nhà năm bảy hôm, chờ con cháu về đông đủ, để họ hàng, làng xã, hàng tổng, hàng huyện đến phúng viếng; dựng rạp trước sân, dựng nhà trạm dọc đường từ nhà đến mộ để chuẩn bị mọi thứ tế khí và cỗ bàn thết đãi linh đình. Thầy cúng chọn ngày, thầy địa lý chọn đất an táng, phân kim lập hướng hẳn hoi. Có nhà còn sắm đủ trong quan ngoài quách, quàn tạm trong vườn, vài ba tháng sau mới làm lễ an táng.

Trong thời gian chưa chôn có Lễ triêu tịch điện: Buổi sáng dậy, bưng khăn lược vào linh sàng, các con quỳ khóc ba tiếng rồi quấn màn lên cáo từ rằng: “Ngày đã sáng rồi, xin rước linh bạch ra linh tọa.” Sau đó rước hồn bạch ra đặt vào ỷ, vắt màn, dọn chăn gối. Chiều tối lại rước linh bạch vào, đắp chăn chiêu, thả màn xuống. Thờ như lúc sống, chỉ lạy hai lạy (chỉ sau khi an táng, làm lễ thành phần xong mới lạy bốn lạy theo lễ lạy người chết).

Các buổi tối trước khi chưa chôn có lễ chúc thực (trồng bó đuốc trước sân); phường bát âm tấu nhạc, con cháu thay nhau túc trực bên linh cữu, trong nhà ngoài sân đèn đuốc sáng trưng.

Khi thân bằng cố hữu đến phúng viếng, người chủ tang và người chủ phụ đứng cạnh linh tọa và ngoảnh mặt về phía khách. Hễ khách lạy hai lạy thì chủ lễ tạ lại một lạy. Khách vái cha mẹ mình ba vái thì vái tạ một vái. Trách nhiệm tiếp trầu nước, cỗ bàn thuộc về người hộ tang.

Nếu có người con trai nào đi vắng chưa về kịp thì để mũ, khăn xô và gậy cạnh hương án.

Trước khi làm lễ chuyển cữu để chuẩn bị phát dẫn thì áo quan vẫn trở đầu vào trong, coi như lễ người sống. Đọc điếu văn cũng chưa dùng chữ “Hiển khảo” (cha), “Hiển tỷ” (mẹ), mà dùng chữ “Cô phụ” (cha), “Cô mẫu” (mẹ).

Ở thành phố ngày nay đã có nhà lạnh, nhưng ở nông thôn nếu để năm bảy ngày trong nhà thì phải làm sao cho khỏi nhiễm uế khí? Điều quan trọng nhất là người trị tang phải có kinh nghiệm: Áo quan vỏ dày, gỗ tốt, trám thật kín, không để một khe hở nào. Đáy áo quan lót những chất chống ẩm như lá chuối, giấy bản, than, vôi, chè khô, bỏng nếp. Các khe hở của áo quan được bịt kín bằng sơn ta, nhựa đường, dán giấy tráng kim. Nếu để lâu phải có trong quan ngoài quách, giữa quan và quách đổ cát vàng rang khô nóng. Phủ trên thi hài các thứ hương vị để khử uế khí.

Trước ngày an táng còn có thêm tục “Lễ yết cáo tổ tiên”. Nếu không đưa được linh cữu, phần lớn các gia đình rước hồn bạch đến nhà thờ họ. Hồn bạch chỉ được đặt phía trước bàn thờ, để ở dưới, không được đưa lên bàn thờ tổ. Nội dung: báo cáo với gia tiên rằng thân phụ hoặc thân mẫu đã về chầu tổ. Xong lại rước hồn bạch về nhà mình đặt lại trên linh tọa.

Điều hành công việc lễ tang

Trong lúc tang gia bối rối, nếu không có người chủ đạo điều hành, công việc sẽ rất lúng túng và phạm nhiều sai sót.

Khi thân nhân sắp từ trần, việc đầu tiên là tang gia phải mời được người hộ tang. Người hộ tang phải là người thân thích gần gũi, có tuổi tác, kinh nghiệm, tháo vát, có uy tín trong họ. Người hộ tang thay mặt tang chủ điều hành mọi công việc, đối nội, đối ngoại.

Nếu người hộ tang biết cúng lễ thì kiêm luôn, nếu không thì mời người chấp sự. Người chấp sự lo việc hướng dẫn về mặt nghi lễ từ mộc dục, khâm liệm, thiết linh, thành phục đến an táng, thành phần và tế ngu (lễ 3 ngày sau khi chôn). Người chấp sự thường là người có văn hóa (chữ Hán, chữ Quốc ngữ), nên có thể kiêm luôn cả việc tư vấn (viết văn cúng, văn tế, bài vị, long triệu, đối, trướng, cáo phó…).

Người thu lễ: Sau khi thành phục cho đến hết ba ngày sau khi an táng phải có người thu lễ. Người đó chuyên túc trực ở nhà ngoài, hễ có khách đến phúng viếng thì tiếp khách, nhận lễ đặt lên bàn thờ, báo cho tang chủ ra bái tạ. Người thu lễ phải ghi đầy đủ danh sách người đến viếng và số lễ vật để sau này tang chủ biết mà tạ ơn. Người thu lễ kiểm tra lễ vật sau khi khách đã cúng lễ xong và ra về. Vì vậy phải chọn người thân tín của tang gia.

Người chấp hiệu: Thông thường các ban hành lễ đã có người chấp hiệu chuyên trách. Người chấp hiệu là người chỉ huy đám phu kiệu đưa quan tài từ nhà ra xe tang hoặc đại dư (tuy không có xe nhưng khiêng kiệu thay xe gọi là đại dư), điều khiển việc đi đứng, nâng lên hạ xuống, sang trái sang phải bằng hiệu lệnh hai thanh gỗ ngắn cầm tay, cho đến lúc hạ huyệt, tháo dây đòn mà chén rượu, đĩa dầu lạc đặt trên nắp áo quan không sánh ra ngoài.

Nếu gia đình nào tự thu xếp để con cháu khiêng áo quan thì phải chú ý chọn người chấp hiệu nhiều kinh nghiệm.

Chủ tang và chủ phụ: là con trai trưởng và con dâu trưởng. Nếu tang cha mà mẹ còn sống thì mẹ là chủ phụ. Nếu con trai trưởng mất thì cháu đích tôn thừa trọng là chủ tang khi làm lễ tang ông bà; các ông chú đứng hai bên chỉ là bồi tế. Vợ của người cháu là chủ phụ khi bà nội và mẹ chồng đã mất, còn các bà thím chỉ là phụ. Nếu cháu đích tôn còn bé quá, chưa chống gậy lễ tạ được thì chú thứ hai thay thế, nhưng vẫn phải nhân danh cháu mà bái lễ và bái tạ.

Những phong tục nghi lễ ngày xưa khá phức tạp, ngày nay đã được cải tiến, một số tục lệ lạc hậu, lỗi thời đã bị nhiều vùng bãi bỏ, ví dụ tục lăn đường, đuổi tà ma ác quỷ. Lệ tục chung như vậy, nhưng việc vận dụng vào từng địa phương, từng hoàn cảnh cụ thể là khác nhau. Có gia đình đông con cháu, có của ăn của để, sung túc đề huề; có gia đình nghèo, của ít người nên phải tùy nghi châm chước.

Lễ an táng tiến hành như thế nào?

Tùy từng địa phương, từng tôn giáo, mỗi nơi lễ nghi phong tục một khác. Trước đây, có thôn ấp cử những người trai tráng trong làng, trong xóm ra khiêng quan tài và lo việc chôn cất. Nơi có hội tư văn thì hội tư văn đứng ra điều hành công việc theo hương ước định sẵn. Hiện nay, ở nông thôn có các hội trợ tang; thành phố, thị xã có ban quản lý nghĩa trang, một số chi hội trọng thọ các phường, xã hoạt động, đứng ra lo liệu chu đáo.

Lễ an táng tiến hành tùy theo hoàn cảnh từng nhà, “giàu làm kép, hẹp làm đơn”. Ở đây chỉ đề cập phần tang gia cần làm gì:

  • Khi có người thân mất, tang chủ cần đến báo gấp để cùng bàn bạc theo quy ước đã định.
  • Trước đây, tang chủ có khoản tiền thưởng cho người chấp hiệu và những phu kiệu. Nếu từ khi đưa áo quan lên kiệu, đi đến huyệt mà chén rượu, đĩa dầu lạc để trên áo quan không sóng sánh ra ngoài thì tang chủ sẽ đưa tiền thưởng rất hậu.
  • Thân nhân theo thứ tự thân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hàng đi sau linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là “bạch mạc”. Người con trưởng đi trước hoặc đi sau xe quan tài theo tục “cha đưa mẹ đón”.
  • Hạ huyệt xong, tất cả những người đi đưa đều đi vòng quanh mộ một vòng, mỗi người ném xuống một hòn đất.
  • Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ thành phần.

Bên cạnh nghi thức chung như trên, nhiều nơi còn có tục riêng như cầu kinh, yểm bùa, nhốt con gà, cài cây lá chứa, dựng cây nêu, đóng cửa mả, đốt hình nhân…, rắc vàng khẩu dọc đường, cắm hương ở các mộ xung quanh, mời người qua đường ăn trầu hút thuốc, cảm ơn người đắp mộ…

Hơi lạnh ở xác chết, cách phòng?

Hơi lạnh hay âm khí, tà khí có ở xác người chết không?

Chưa ai đo nhiệt độ cụ thể trong thi thể người chết nhưng nhiều người đã công nhận người mới chết lạnh hơn nhiều so với nhiệt độ bình thường của con người cũng như của môi trường xung quanh.

Hiện tượng đó được giải thích như sau: Con người đang ở nhiệt độ bình thường (37°C), tự nhiên mất nhiệt thì nhiệt độ không chỉ hạ xuống ngang với nhiệt độ môi trường mà còn tụt xuống thấp hơn, sau đó một thời gian nhiệt độ mới nhích dần lên tới thể ổn định.

Dân gian công nhận hiện tượng hơi lạnh ở nhà người mới chết là hiện tượng có thực; hiện tượng vướng phải hơi lạnh bị ốm cũng là phổ biến, nhất là đối với những người bị các chứng kinh niên như phong thấp, huyết áp cao, tâm thần… Còn đối với những người mạnh khỏe thì ít bị ảnh hưởng.

Có thuyết cho rằng: Những người đồng khí huyết (con cái với cha mẹ, anh chị em ruột hoặc gần huyết thống) thì không bị nhiễm hơi lạnh, không có phản ứng gì kể cả khi ôm ấp thi hài và khâm liệm. Tuy nhiên, để phòng xa, người ta vẫn kiêng không cho các bậc cao lão, phụ nữ có thai sắp đến ngày sinh hoặc sản phụ, hài nhi đến dự khâm liệm, an táng và cải táng.

Có người hấp thụ phải hơi lạnh thì phản ứng tức thì. Có người trực tiếp khâm liệm, nhiễm hơi lạnh, bản thân khỏe mạnh không việc gì, nhưng để phòng ngừa cho người ở nhà nên trước khi vào nhà có người già, ốm yếu, trẻ sơ sinh vẫn phải xông khói. Những người hàng xóm xung quanh nhà có lễ tang, nếu có cụ già, trẻ nhỏ ốm yếu thường đặt sẵn ở cửa ra vào một lò than đốt vỏ bưởi và quả bồ kết để trừ uế khí. Những người nghi bị chó dại cắn, gia đình thường tuyệt đối cách ly đám tang và nghĩa trang, vì sợ rằng vướng phải hơi lạnh chưa kịp chạy chữa đã phát bệnh.

Lễ ba ngày (Lễ tế ngu)

Tục này không thống nhất: có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau khi chôn. Xét trong điển lễ thì không có lễ ba ngày mà chỉ có lễ “tế ngu”, gồm “sơ ngu”, “tái ngu”, “tam ngu”. “Ngu” nghĩa là “yên”, tức là ba lần tổ chức lễ để yên hồn phách.

Theo Thọ Mai gia lễ, khi chôn xong, rước linh vị về đến nhà tổ chức sơ ngu. Làm sơ ngu xong, gặp ngày nhu (tức là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý) làm lễ tái ngu; gặp ngày cương (tức ngày Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm) làm lễ tam ngu. Phan Kế Bính cũng diễn giải như trên.

Dần dần về sau, người ta giản lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam ngu, vì thế gọi là “lễ ba ngày”. Vậy là tính ba ngày từ sau khi chôn, theo tục gọi là “lễ mở cửa mả”. Ngày đó, con cháu ra sửa lại mộ, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước… “Ngu” là tế ngu, chỉ tế người chết, tế thần.

Theo phong tục cũ, ít khi chết xong chôn ngay, thường còn để năm bảy ngày trong nhà. Khi chưa chôn thì làm lễ triêu tịch điện, tức là cúng cơm hằng ngày vẫn theo lễ thờ người sống. Vậy, tế ngu phải tính từ sau khi chôn.

Còn có một lập luận khác cho rằng có ba điều không yên khiến phải làm lễ tế ngu:

  • Đang sống hoạt động nay mọi hoạt động bỗng nhiên đình chỉ.
  • Đang nhìn thấy bóng dáng, khi đã nhập quan không nhìn thấy bóng dáng nữa.
  • Đang ở trên dương thế, nay xác về cõi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm – dương hoàn toàn cách biệt từ sau lễ thành phần.

Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm cho yên hồn phách, vậy phải tế sau khi mất, sau khi làm lễ nhập quan và sau khi lễ thành phần xong.

Ngày nay cũng có trường hợp sau khi chết 4-5 ngày còn để trong nhà lạnh chưa chôn nên không thể làm lễ ba ngày trước lễ an táng.

Tại sao có lễ cúng cơm trong 100 ngày?

Gia đình Việt Nam nhà nào cũng vậy, mỗi ngày có hai bữa cơm chính là giờ phút đầm ấm nhất.
Trong nhà có người về muộn, mọi người cũng cố chờ về ăn cơm một lúc cho vui vẻ, đầm ấm. Con cháu cầm bát cơm lên, trước hết mời ông bà, cha mẹ, chờ ông bà, cha mẹ bắt đầu ăn rồi mới dám ăn. Có nơi xới bát cơm thứ hai còn mời lần nữa. Nếu có khách, trước khi buông bát đũa đứng dậy còn phải xin phép và mời khách tiếp tục xơi cơm.
Cuộc sống gia đình đang vui vẻ, êm đẹp như vậy, vắng mặt trong bữa cơm còn nhắc, huống chi là vĩnh viễn đi xa. Do đó, trước bữa ăn, người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình thường – nhà ăn thứ gì thì cúng thứ ấy – thường là tinh khiết, không đòi hỏi cầu kỳ. Nhà nghèo thì lưng cơm, đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong, dựng đôi đũa vào giữa bát cơm, có rượu thì rót chén rượu, khấn vái xong thì rót chén nước.

Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thỏa nguyện tâm linh, “lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương”.

Nhưng tại sao lại cúng 100 ngày?

Cũng tùy địa phương, có nơi chỉ cúng hết 49 ngày (tức là lễ chung thất) vì theo thuyết của Phật giáo: qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm ty; sau 7 tuần linh hồn đã được siêu thoát. Có nơi cúng hết 100 ngày (tức là lễ tốt khốc – nghĩa là thôi khóc). Theo giải thích của các cụ ngày xưa, thời gian này linh hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn trong nhà, chưa đi xa.

Chúng tôi cho rằng phong tục này có căn cứ khoa học: Theo thuyết thần giao cách cảm, ngoài điện trường vật lý đã được ứng dụng trong thực tiễn, còn có điện trường sinh học. Những cá thể có cùng tần số cảm ứng trong điện trường sinh học, mặc dù ở cách nhau rất xa vẫn nhận được những nguồn thông tin của nhau.
Các nhà khoa học đã vận dụng những phát kiến đó để giải thích về điềm, về giấc mơ, về những biểu hiện tâm sinh lý bất thường khi thân nhân (có thể cách xa về không gian) có sự biến động bất thường. Người ta bảo chết là hết. Nhưng, chết chưa phải là đã hết khi người chết còn tồn tại trong tâm trí người sống.

Sau khi chết, tim ngừng đập, máu ngừng chảy, thần kinh cảm giác ngừng hoạt động, nhưng vỏ não chưa bị hủy, xung động điện trường phát từ não vẫn chưa ngừng phát sóng. Lớp đất dày không ngăn được sóng điện vật lý hay sóng điện sinh học. Cá thể sống có tần số điện trường sinh học tương ứng vẫn tiếp nhận được tín hiệu. Do đó hiện tượng báo mộng chưa hẳn là vu vơ, không đáng tin.
Phải chăng vì lẽ đó mà các cụ cho rằng linh hồn còn phảng phất, chưa siêu thoát?

Lễ chung thất và tốt khốc có phải chọn ngày không?

“Chung thất” là lễ cúng 49 ngày. “Tốt khốc” là cúng 100 ngày.
Theo Thọ Mai gia lễ, cứ đúng ngày quy định trong gia lễ mà làm lễ cúng 49 ngày và 100 ngày, không nên có sự chuyển dịch tùy tiện theo lời thầy lễ hay thầy bói.
Chỉ trừ ngày làm lễ an táng và ngày làm lễ trừ phục (hết tang) trong gia lễ có ghi là cần chọn ngày lành. Người ta không ai có thể chọn ngày chết, vậy nên từ xưa tới nay, hằng năm cứ đến ngày mất thì làm giỗ, dù cho có những năm ngày đó rất xấu…

Theo gia lễ, lễ chung thất, tốt khốc, tiểu tường, đại tường cứ theo đúng ngày mà làm lễ. Con cháu ở xa nhớ ngày về làm lễ, thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới dự.
Xin lưu ý: tang tế theo ngày định sẵn, thân bằng cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng không đợi thiệp mời như lễ mừng, lễ cưới. Không có chuyện “hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo” (mời thì đến, không mời thì thôi).

Lễ nào là lễ trọng?

Đây là câu hỏi phổ biến của nhiều gia đình:

  • Trong một năm có nhiều lễ giỗ: giỗ cha, mẹ, ông bà, cụ, kỵ, v.v., giỗ nào quan trọng hơn cả?
  • Sau khi an táng xong có lễ 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu, giỗ thứ hai, v.v., lễ nào là lễ chính?

Trước đây chưa thấy ghi trong điển lễ, nhưng ngày nay lại là vấn đề rất đáng quan tâm. Vì nhà nào con cháu nội ngoại công tác, cư trú phân tán mỗi người một nơi (không mấy gia đình không có người đi xa), trong một năm chỉ có điều kiện tụ hội gia đình một hoặc hai lần nhân ngày lễ trọng của gia đình.
Hoàn cảnh kinh tế eo hẹp, muốn mời bà con, khách, bạn – trước là tới dự lễ gia tiên cùng thỏa nguyện tâm linh, sau là để tỏ tình thân hiếu – không thể rải ra nhiều lần, vậy phải xác định tập trung vào lễ chính.

Về lễ giỗ, phong tục các nơi nói chung đều thống nhất lấy giỗ cha, mẹ là chính (chú ý cha, mẹ của người tôn trưởng nhất trong nhà).
Còn lễ tang thì phong tục mỗi nơi một khác:

  • Có nơi chú trọng lễ 49 ngày là chính,
  • Có nơi coi lễ 100 ngày là chính,
  • Có nơi làm lễ 3 ngày xong xuôi tốt đẹp là được – bởi vì trong khi tang gia bối rối, việc đáp lễ đối với thân bằng cố hữu và những người đến hộ tang có thể còn nhiều khiếm khuyết, nên lấy lễ 3 ngày làm lễ trọng – để nhân lễ này tang gia tạ ơn những người chăm sóc cha mẹ mình khi đau yếu và giúp đỡ gia đình lo xong phần an táng.

Có nơi coi trọng lễ giỗ đầu (gọi là tiểu tường), có nơi coi trọng giỗ thứ hai (gọi là đại tường, còn gọi là giỗ hết). Có lập luận cho rằng: đã gọi là “đại tường” (nghĩa là tốt đẹp lớn) thì bao giờ cũng quan trọng hơn “tiểu tường”.

Xét theo lễ nghi, ngày nay kết hợp đại tường và đàm tế có nhiều nghi tiết phức tạp hơn tiểu tường (xem phần: Cách tiến hành đàm tế).

Tóm lại, hoàn cảnh kinh tế, hoàn cảnh sinh hoạt xưa và nay khác nhau. Đây là vấn đề thiết thực, nhất là đối với những gia đình còn nhiều khó khăn về kinh tế và con cháu làm ăn xa, nên tùy theo phong tục từng nơi, hoàn cảnh cụ thể từng nhà mà thỏa ước với nhau. Có điều kiện thì hội tụ gia đình, ai ở xa nhớ ngày làm lễ tưởng niệm cũng được.

Khi hết tang làm lễ trừ phục (đàm tế) như thế nào?

Lễ trừ phục có thể hiểu dân gian là lễ hết tang. Cũng có người, có nơi lấy tên một nghi thức chính của lễ này đặt tên cho lễ hết tang – đó là lễ đàm tế. Thực ra, trừ phục gồm ba lễ:

  1. Lễ sửa mộ: đắp sửa mộ thành mộ tròn.
  2. Lễ đàm tế: cất khăn tang, hủy đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính, bỏ bàn thờ tang, thu cất các bức trướng, câu đối viếng.
  3. Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: chép sẵn linh vị mới, phủ giấy hay vải đỏ. Khi đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới.

Trường hợp nhà con thứ không thờ gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để nguyên bàn thờ như cũ, không phải chuyển bàn thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ ở nhà thờ tổ.

Vì sao có tục đốt vàng mã?

Theo quan niệm của người đời xưa, người chết cũng cần ăn uống, nhà cửa, quần áo, hút thuốc, ăn trầu, cũng cần tiền xe, tiền đi lại và mọi khoản chi dùng như khi còn sống… Người chết cũng được chia một phần gia tài. Ở Sơn La, Lai Châu, nhiều nơi còn dựng các nhà mồ, trong nhà mồ cũng có đầy đủ các nồi đồng, mâm gỗ, ấm đất, bát đĩa, dao rựa, chăn chiếu, quần áo, mũ nón… đủ tiện nghi cho một cá nhân. Người chết cũng được chia cả trâu, lợn, gà, thóc, gạo…

Sau ba năm, tang chủ làm lễ khấn vái và ra mồ xin lại những đồ vật còn dùng được và súc vật còn sống, kể cả súc vật vừa mới đẻ ra…

Từ việc cúng tế bằng đồ thật, dần dần mới sinh ra lễ đốt vàng mã, tức là thay thế bằng các đồ vật làm bằng tre, gỗ, rơm, rạ, đất sét hoặc giấy tượng trưng, nhưng kích thước thu nhỏ lại để người cõi âm mang đi, nhờ có “phép thiêng biến ít thành nhiều”. Áo quần của người chết mặc khi còn sống, để lại nhà mồ sau ba năm mục nát, không nỡ dùng vào việc khác, người ta đốt đi, dần dần sinh ra lệ đốt thêm quần áo mới. Quần áo mới bằng vải lại được thay thế bằng quần áo giấy. Vì vậy mới có câu tục ngữ: “Đi với ma mặc áo giấy”.

Chiêu hồn nạp táng là gì?

Trong gia phả các họ rất chú trọng mục “mồ táng ở đâu”. Trong mục này có một số trường hợp ghi chú: “Chiêu hồn nạp táng”. Vậy “chiêu hồn nạp táng” là gì?

Đó là những ngôi mộ không có tử thi, hài cốt – mộ người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ… không tìm được tử thi. Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an táng theo như tang lễ thông thường.

Các cụ kể lại rằng chất liệu làm hình nhân có nhiều loại: có địa phương dùng cây núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoàng bá, bạch ngọc nhi – núc nác là loại gỗ mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu hoại, lại dễ kiếm); có nơi dùng bùn lấy ở giữa lòng sông; có nơi dùng đất mùn đào ở giữa ngã tư đường cái.

Hình nhân được đẽo gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu, mình, chân tay là được (vì đa số không phải là nghệ nhân). Kích thước hình nhân khoảng 30–40 cm chiều dài. Thi hài tượng trưng đó cũng được khâm liệm, đưa vào áo quan làm bằng gỗ vàng tâm, kích thước nhỏ, hoặc đưa vào tiểu sành. Trên hình nhân có phủ linh vị viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bàn thờ. Trước khi làm lễ an táng, có mời thầy cúng làm bùa ấn, phù phép để vong hồn nhập vào hình nhân.

Lễ an táng và các lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thông thường.

Hình nhân thế mạng là gì?

Ở nước ta chưa có tục tuẫn táng, nhưng trước đây có tục đốt hình nhân thế mạng – vốn xuất xứ từ tục tuẫn táng, nhưng nhân đạo hơn.

Để vua chúa xuống dưới âm cung có người hầu hạ, ở nước ta không có tục lệ chôn sống người mà dùng hình nôm làm bằng tre nứa, quấn rơm rạ hoặc nhào nặn bằng đất sét, bên ngoài dán giấy làm quần áo rồi vẽ mặt mũi. Sau đó, thầy phù thủy làm phép, vẽ bùa, đóng ấn. Sau khi tế lễ xong thì đốt hình nhân đó cùng với vàng mã.

Nếu là lễ Thủy thần, Long Vương, Hà Bá thì làm thuyền bằng giấy kết trên thân cây chuối, rồi đặt hình nhân vào thuyền và thả trôi sông.

Có người nghe theo lời bói toán nhảm nhí rằng sắp đến vận hạn, bị hung thần quỷ dữ bắt, nên phải nhờ thầy cúng làm lễ, đốt hình nhân thế mạng…

Đây là một tập tục chứa đầy tính mê tín dị đoan, đã bị đả phá, bãi bỏ từ đầu thế kỷ. Chính quyền phong kiến đã ra lệnh cấm hủ tục này. Người nào cố tình vi phạm, nếu phát hiện được sẽ bị phạt nặng. Địa phương nào để xảy ra hủ tục này, nếu phát hiện được thì lý trưởng nơi đó sẽ bị cách chức.

Ngày nay, hủ tục này lại có cơ phát triển, cho nên việc bài trừ là cần thiết, phù hợp với việc xây dựng nền văn hóa mới.

Tại sao phải cải táng? Những trường hợp nào không nên cải táng?

Người mất, sau ba năm đoạn tang hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc cải táng.

Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ đường. Đến hôm cải táng, lại làm lễ khấn Thổ Công chỗ để mả mới táng.

Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp vào một cái tiểu sành, rảy nước vang vào rồi che đậy thật kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt vào. Nhà phú quý thì dùng quan quách liệm như khi hung táng.

Đoạn đem cải táng sang đất khác. Còn quan tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về dùng hoặc làm cầu, chuồng trâu, chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân.

Cải táng có nhiều lý do:

  1. Nhà nghèo, khi cha mẹ mất không có tiền lo liệu, mua tạm ván xấu, đợi ba năm thì cải táng, kẻo ván hư nát hại đến di hài.
  2. Chỗ đất có mối kiến, nước lụt nên phải cải táng.
  3. Nhà địa lý thấy mộ sụt đất, cây trên mộ héo, nhà có người tâm thần, đau ốm liên miên, kiện tụng… thì cho là tại đất nên cải táng.
  4. Muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm đất cát cải táng. Có người thấy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần đó để hưởng dư huệ.

Ba trường hợp nên giữ nguyên mộ, không cải táng:

  1. Đào đất thấy căn rắn vàng – cho là long xà khí vật.
  2. Mở quan tài thấy dây tơ hồng quấn – cho là đất kết.
  3. Hơi đất ấm áp, huyệt khô ráo, không có nước hay có giọt nước như sữa – đều là điềm tốt.

Nhà phú quý thì xây lăng; nhà thường thì dựng mộ chí, đợi tuần tiết đến thăm viếng.

Tục cải táng vẫn có người áp dụng. Nhưng cũng có người, khi hung táng đã sắm sửa kỹ càng nên không cần cải táng.

Tục này bắt nguồn từ niềm tin: tổ tiên – con cháu huyệt mạch tương quan, hài cốt yên thì con cháu an, không yên thì con cháu cũng khốn khổ.

Có người tin thầy địa lý quá mức, mời về ở hai, ba tháng để tìm đất. Có nhà động thấy không yên là cải táng liên tục, có khi đến năm, sáu lần.

Thiết tưởng: nếu thực lòng kính trọng tiên nhân thì chớ nên di đi dịch lại. Trừ khi vạn bất đắc dĩ mới nên cải. Đừng vì công danh phú quý chưa thấy mà làm việc thương tâm. Việc khai mả cũng ảnh hưởng đến vệ sinh, không nên lắm. Gia đình tốt xấu là do người sống, không hẳn do đất. Nếu có, thì cũng không dễ tìm – nhà phúc hậu tự gặp hay, nhà bạc ác thì hay gặp dở. Việc ấy không nên quá tin tưởng mà uổng công mệt sức đi theo việc vu vơ.

Thiên táng là gì?

Ngày xưa, có người đi làm ăn xa, dọc đường chẳng may chết đột ngột. Người đi cùng hoặc người qua đường nhận ra, chỉ kịp đánh dấu chỗ nằm, chưa kịp chôn, rồi về báo cho thân nhân. Khi người nhà đến thì mối đã vùi lấp hết xác. Thân nhân cho rằng đó là huyệt tốt, trời đã dành và chôn hộ nên gọi là “thiên táng”, tin rằng gia đình sẽ phát đạt nên không cải táng mà vun cao lên.

Những ngôi mộ thiên táng thường ở ven đường cái. Ngày nay, dọc quốc lộ vẫn còn thấy những ngôi mộ đắp đất, gọi là “thảo mộ”. Trải qua hàng trăm năm mưa gió, nhưng vẫn được tôn cao. Phần lớn là mộ vô thừa nhận, người nhà không tìm thấy. Mộ vẫn được đắp cao, hương khói không ngớt do cư dân xung quanh và khách buôn thờ cúng, tin rằng những âm hồn ấy linh thiêng, phù hộ độ trì cho khỏe mạnh, làm ăn phát đạt.

Đất dưỡng thi là gì?
Có những ngôi mộ do kỹ thuật ướp xác, trải qua hàng trăm năm da thịt vẫn còn nguyên vẹn, không hoại. Nhưng cũng có những ngôi mộ lâu đời không sử dụng kỹ thuật ướp xác mà da thịt vẫn còn nguyên, do được chôn vào đất dưỡng thi.
“Đất dưỡng thi” là loại đất gì, gồm những yếu tố hóa học nào, nhiệt độ và độ ẩm ra sao, có những đặc điểm gì để nhận biết thì chưa ai rõ. Hoặc giả xưa kia có thầy am hiểu thuật phong thủy đã tìm ra, nhưng nay đã thất truyền. Hoặc cũng có thể do ngẫu nhiên, tình cờ gặp mà không biết. Chỉ biết rằng đó là một môi trường trong đó cả vi khuẩn hiếu khí và yếm khí đều bị hủy diệt. Hy vọng trong tương lai, khi khoa học phát triển, sẽ có nhiều người để tâm nghiên cứu, điều bí ẩn của đất dưỡng thi sẽ được khám phá.

Tại sao kiêng đắp mộ trong vòng tang?
Theo phong tục, sau ba ngày an táng là làm lễ mở cửa mả. Trong buổi đó, sửa sang mộ cao ráo, đắp cỏ xung quanh, làm rãnh thoát nước, chặt bỏ cây bụi để phòng rễ mọc lan, xuyên vào mộ làm thủng áo quan. Kể từ ngày đó, con cháu đến thăm viếng, thắp hương chỉ được lấy đất xung quanh để đắp bổ sung vào những chỗ bị sụt lở, không được trèo lên mộ, không được dùng thuổng, cuốc vào.
Xét ra, tục kiêng ấy rất có lý: Trong ba năm đó, áo quan và thi thể đang trong thời kỳ tan rữa. Đã xảy ra những trường hợp do không biết đề phòng mà mộ bị sập. Sập mả, đọng mả, mặc dù là hiện tượng tự nhiên nhưng cũng gây cho tang gia nhiều lo lắng.

Tại sao cải táng mộ thường tiến hành khi chưa có ánh sáng mặt trời?
Có lý luận cho rằng, âm – dương cách biệt nên phải kiêng để mặt trời trực tiếp rọi vào. Nhưng theo chúng tôi, xuất phát từ kinh nghiệm thực tế, có nhiều trường hợp gặp đất dưỡng thi hoặc ba điều tướng thụy (tức mộ kết phát) không nên cải táng, phải lấp lại ngay. Trong trường hợp thi thể sau nhiều năm vẫn còn nguyên vẹn, nếu để ánh nắng mặt trời trực tiếp rọi vào thì sẽ rữa ra ngay và teo lại. Vì vậy, để phòng xa nên kiêng ánh mặt trời, lâu ngày trở thành phong tục chung.

Ma trơi hay ma chơi?
Tiếng khu Bốn (cũ) gọi là “ma trơi”, Bắc Bộ gọi là “ma chơi”. Chúng tôi chưa rõ biến âm hay xuất xứ của ngôn từ ám chỉ loại ma đó “chơi vơi”, “chơi đùa với trần thế” hay “trêu chọc cho xấu hổ”. Trong Văn chiêu hồn thập loại chúng sinh, Nguyễn Du có viết:

Lập loè ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

Ma trơi là ngọn lửa lập loè yếu nhạt, bập bùng lan tỏa theo chiều gió, chốc lại biến mất, rồi từ chỗ cũ, chốc chốc lại lập loè ngọn lửa xanh nhạt, loáng thoáng bay lên.
Các cụ già thì giải thích, đó là oan hồn của những người chết trận, của những nắm xương vô thừa nhận, không người chôn cất, vất vưởng trên bãi chiến trường, trong bãi tha ma hoặc trên cánh đồng không mông quạnh.
Nhưng khoa học đã giải thích, chứng minh hiện tượng đó là do chất lân tinh (P) từ trong xương cốt người và súc vật tỏa ra, gặp ôxy trong không khí bốc cháy thành ngọn lửa xanh nhạt. Ban ngày cũng có nhưng không nhìn thấy.
Sở dĩ có hiện tượng tưởng là ma trơi đuổi theo là vì khi ta chạy đã tạo nên một luồng không khí cuốn hút ngọn lửa ấy vờn theo.

Tại sao, tại sao và tại sao?

  • Tại sao có tục đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng đôi đũa trên bát cơm, cài quả trứng vào giữa hai chiếc đũa rồi thắp hương đặt trên đầu người chết suốt trong thời gian chưa nhập quan?
  • Tại sao người ta cắm một cái cọc kim loại dưới chân giường người chết?
  • Tại sao khi chưa nhập quan, người ta đặt ngang một con dao trên bụng người mới chết?
  • Tại sao trên nắp áo quan, người ta luôn luôn thắp hương, nến (nếu không có nến thì thắp ngọn đèn dầu) cho đến khi hạ huyệt, không để tắt hương, đèn?
  • Tại sao hai bên hương án, phía gần kề áo quan, người ta đặt hai cây chuối con?
  • Tại sao có tục dựng bó đuốc to ở giữa sân vào ban đêm trước lễ an táng (nếu để qua đêm), con cháu và thân nhân túc trực quanh linh cữu (lễ “chúc thực” ban đêm, “chúc” nghĩa là đuốc, đóm; “thực” nghĩa là trồng; lễ “chúc thực” nghĩa là lễ “trồng bó đuốc”)?
  • Tại sao có tục kiêng người nhà không được đứng cạnh thi hài mà khóc, tránh nhỏ nước mắt vào thi hài?
  • Tại sao sau lễ nhập quan phải đốt “lỗ hung” (lỗ đào ở chính giữa giường người mới chết nằm khi chưa nhập quan. Chất đốt có thể dùng trấu, than, củi hoặc giẻ rách…)?
  • Tại sao lễ tang là việc buồn lại đốt pháo? (tục này chỉ có ở thành phố đối với người già).
  • Tại sao phải nhốt mèo trong nhà khi có người mới chết?
  • Tại sao khi người chết trong nhà, người ta phải trèo lên mái nhà dỡ một vài viên ngói, hoặc vài chóp lá tranh (đối với nhà bịt nóc và ít cửa)?

Những câu hỏi trên cùng có chung một câu trả lời: Đó là kinh nghiệm dân gian, dùng phép thuật điều hòa khí âm – dương, thu hút tà khí để phòng chống hơi lạnh và phòng xa hiện tượng “quỷ nhập tràng”. Xuất phát từ kinh nghiệm, dần dần bắt chước nhau trở thành phong tục.

Dùng khói lửa, ánh sáng mặt trời (đốt hương, nến, đèn, đuốc, than, trấu, dỡ mái nhà, mở rộng cửa, đào lỗ hung, đốt pháo…) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát cơm, quả trứng, cây chuối để thu hút hơi lạnh. Nếu bỏ đôi quả trứng thì có nhiều quả lòng đỏ đã trở nên xanh thẫm giống như những quả trứng dùng để đánh gió. Nhốt mèo để đề phòng mèo nhảy qua xác chết; kiêng khóc nhỏ nước mắt vào thi hài; cắm cọc kim loại dưới giường người chết, dỡ mái nhà… là những thuật triệt tiêu các luồng điện âm – dương hút nhau.

Ngoài ra, những người đến dự lễ tang, nhất là dự khâm liệm, còn có những thuật khác để phòng chống hơi lạnh như: ngậm gừng sống, uống nước lá nhót, ăn trầu và xông khói vỏ bưởi, bồ kết trước và sau khi đến lễ tang.