VĂN KHẤN GIA TIÊN

Đồ lễ đặt lên bàn thờ, hương đèn đã thắp, gia trưởng phải mời hết các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với tất cả chú bác cô dì anh chị em nội ngoại đã khuất.

Văn khấn xưa thường dùng chữ nho, nhưng trong dân gian cũng nhiều người dùng chữ nôm, nhất là ở những gia đình mà người gia trưởng đã mất, các con nhỏ chưa biết khấn vái, hoặc việc khấn vái do đàn bà phụ trách. Tiếc rằng nghi lễ cấm đàn bà tham gia cúng lễ, nhưng trong gia đình, khi người chồng chết, người vợ thường đảm nhiệm việc cúng khấn thay các con nhỏ.

Văn khấn dùng chữ nôm để tránh sự sai lầm vì không hiểu nghĩa chữ nho, tiếng nọ khấn sang tiếng kia, hoặc đoạn khấn sau lại được đưa lên trước.

Từ khi người Pháp sang Việt Nam, chữ quốc ngữ được dùng để thay thế cho Hán tự, và gần hơn, kể từ sau năm 1945, việc khấn vái dân ta đã dùng hầu hết tiếng Việt thay cho chữ nho.

Trong bài văn khấn, phải nói rõ ngày tháng làm lễ, lý do, liệt kê lễ vật, những điều cầu xin nếu có.

Dưới đây là một mẫu văn khấn:
Hôm nay là ngày… tháng… năm… Nay con giữ việc phụng thờ tên kỵ…, ở xã…, huyện…, tỉnh…, cùng toàn gia, trước hương thờ gia tiên cúi đầu bái lễ.
Kính dâng lễ bạc: trầu rượu, trà nước, vàng hương, hoa quả cùng phẩm vật, lòng thành nhờ dịp sinh hạ cháu trai, kính mời hương hồn nội ngoại gia tiên, kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ, cô dì chú bác, anh chị em chứng giám và hưởng lễ.
Con kính xin gia tiên phù hộ độ trì cho cháu nhỏ hay ăn, chóng lớn và toàn gia khang kiện.
Cẩn cáo.
Trước kia, các cụ đã có đặt ra nhiều bài văn khấn nôm bằng thơ cốt để cho đàn bà, trẻ con học dễ nhớ, dùng trong việc cúng lễ gia tiên.
Dưới đây là một trong những bài khấn ấy:
Duy Đợi Việt tuế thứ…, ngày…, tháng…, năm… (âm lịch), tín chủ là…, tuổi…, sinh quán tại…, trú quán tại…, cùng toàn gia.
Cúc cung bái trước bàn thờ
Kính dâng lễ bạc, hương hoa, rượu trầu,
Cùng là phẩm vật trước sau,
Lòng thành lâm nguyện thỉnh cầu gia tiên:
Cao tằng tổ khảo đôi bên,
Cao tằng tổ tỳ dưới trên người người,
Cô dì chú bác kính mời,
Dự huynh dòng tộc tới nơi từ đường;
Cúi xin phù hộ khang cường toàn gia.
Cẩn cáo.
Trong “Thọ Mai gia lễ” cũng có những mẫu văn khấn, ông Chu Ngọc Chỉ đã dịch ra Việt ngữ:
Văn khấn tổ tiên
Năm… tháng… ngày…, cháu kế tự tên…, vì có việc…, xin đem lễ bạc, dâng chút lòng thành, nến hương đèn rượu, dĩa muối lưng canh, trước bàn thờ khấn vái, xin thấu tâm linh, hộ cho con cháu, mọi sự yên lành.
Cẩn cáo.
Kính mời thổ công Táo quân cùng lai cách cảm.
Lúc khấn, gia trưởng chỉ khấn lầm rầm, đọc khẽ trong miệng.
Cùng với việc cáo gia tiên, bao giờ cũng phải cúng khấn Thổ công vì ngài là Đệ nhất gia chi chủ, để xin phép ngài cho hương hồn tổ tiên được về hưởng lễ.