Khám Thờ: Khám Phá Ý Nghĩa Tinh Thần và Kiến Trúc Cổ Việt

KHÁM THỜ

Là một hiện vật tường đôi hiếm trong các di tích. Về tinh thần, khám thờ như làm tăng thêm ý nghĩa thâm nghiêm của thần. Những khám thờ sớm nhất hiện biết được đã có niên đại vào thế kỷ XVI, đó là khám thờ Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy, khám thờ ở chùa Bà Tấm (Dương Xá – Gia Lâm) và ở Văn Miếu. Chúng ta đã gặp khá nhiều khám thờ với nhiều dạng khác nhau của thế kỷ XVII, như ở chùa Bút Tháp (Thuận Thành – Hà Bắc), ở đền Lạch Bạng (Tĩnh Gia – Thanh Hóa), ở đền Lê Đại Hành (Thọ Xuân – Thanh Hóa), ở nhiều ngôi đền thuộc huyện Ba Vì (Hà Tây) và ở nhiều nơi khác… nhất là ở các điện thờ như điện Mẫu.

Nguồn Gốc và Ý Nghĩa Khám Thờ

Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng, khám thờ là sản phẩm bắt nguồn từ Trung Hoa. Một số nhà nghiên cứu khác, chuyên tâm về kiến trúc cổ đã ngờ rằng: khám thờ được bắt nguồn từ “am thờ” trong kiến trúc. Có thể lấy dẫn chứng là những bộ phận thờ thành hoàng trong những ngôi đình, đền cổ như đình Tây Đằng, đình Chu Quyến (Ba Vì – Hà Tây). Những ngôi đình này có gốc hình chữ nhật, nơi thờ được thực hiện trên sàn cao nối từ phần cột cái phía trong của gian giữa vào tới cột quân. Hầu như mọi chỗ thờ thành hoàng kiểu này đều được bưng kín, trong đó thường có ngai, bài vị và một số đồ thờ tương ứng…, đôi khi có cả tượng. Dựa vào chức năng và hình thức đó, nhiều người dễ liên tưởng tới cái khám. Cũng có thể nghĩ rằng khám thờ được coi là thế giới linh thiêng trong linh thiêng, nơi đó hội tụ một tinh thần thánh thiện cao viễn. Trong nhiều trường hợp, khám thờ mang tư cách như một ngôi nhà nhỏ để hội tụ vào đấy những tinh hoa của nghệ thuật.

Khám thờ chùa Thầy với đỉnh mang hình thức như một quả lôi, nó gần gũi với lọ nước Cam Lồ, bốn phía đặt cân xứng bốn đường diềm khiến kết cấu bao ngoài mang dáng của trái bầu. Tâm của cả hệ thống là một búp sen. Từ đỉnh chạy xuống là hệ thống bốn mái mui luyện với diềm lá sồi nối nhau. Nhìn chung, diềm mái được kéo thẳng, dưới mái là hệ thống ván bưng đứng, tì lực trên bốn xà đai, từng cặp đầu các xà kết với nhau theo mộng ngoàm, rồi chạy ra, được chạm thành hình đầu rồng. Hiện tượng các xà đai nhô đầu ra ở bốn góc của kiến trúc, vài hiện vật tìm được ở tháp Chương Sơn (Ý Yên – Nam Định), ở chùa Bối Khê và ở tháp Phổ Minh (Nam Định), chúng ta có thể khẳng định nó có từ thời Lý. Có thể phần ván bưng ở khám chùa Thầy đã được thay nên chúng không tương xứng. Dưới xà đai lại là một hệ thống bộ mái cong kiểu mui luyện, khiến chúng ta như cảm thấy khám mang tư cách như một kiến trúc, ít nhiều chịu sự chi phối bởi tư tưởng Dịch học (có thể tạm nghĩ khám đồng nhất với Thái cực: mái trên – dương, mái dưới – âm; bốn phía tương ứng với Tứ Tượng, tám mái tương ứng với Bát quái). Tính chất này có thể cũng đồng nhất với gác chuông chùa Điềm Giang ở Hoa Lư – Ninh Bình – với niên đại gốc cũng vào thế kỷ XVI.

Chất Liệu và Hình Thức Khám Thờ

Dưới lớp mái thứ hai cũng có hệ thống xà đai với đầu chạm rồng tương tự tầng trên, nhưng đáng quan tâm hơn là hệ thống đấu củng (con sơn – đấu ba chạc kép) liên kết giữa xà đai với ván lót dưới mái. Ở đây, chúng như gợi ý về một kết cấu của kiến trúc cổ, mà bóng dáng của nó đã gặp trên kiến trúc của thời Lý và thời Trần. Dưới hệ thống xà đai này là một đường diềm hoa dây kết bởi các vân xoắn theo phong cách Mạc. Nếu các góc của xà đai mái trên tì lực lên “cột cái” thì bộ mái dưới có góc xà đai tì lực lên cột quân góc. Hệ thống tường bao được tạo dưới hình “ván đô”, được liên kết quanh bốn cột trong. Các ván của “đô” được trang trí hoa văn bố ô mắt cáo hình chữ thập và hình lục giác to nhỏ ken nhau. Trong các ô lớn là những hoa văn chữ thập cách điệu. Hiện tượng này phần nào cũng tương tự như hoa văn trên tháp gạch cùng thời ở Chí Linh và Đông Triều (Hải Dương). Mặt trước cũng được bổ sáu ván “đô” tương tự, trong đó hai ván giữa được biến thành cửa với mũ cửa nhô ra theo kiểu “ô văng” chạm rồng chạy theo các cạnh của cửa. Cửa khám được làm theo kiểu bức bàn chém hai góc trên, mỗi cánh đều chạm một rồng chạy từ đỉnh cửa xuống rồi ngóc đầu chầu vào quả lôi ở giữa, phần dưới được chạm phượng với những nhành cây cách điệu theo kiểu cây thiên mệnh (chỉ có cành, không lá).

Bao quanh hệ thống cột ngoài là lan can. Ngoài bốn trụ góc, mỗi mặt được chia thành bốn khoảng bằng cách bổ ba trụ nhỏ. Liên hệ giữa các trụ là hệ thống xà kép ba; phần giữa xà thượng và xà trung để thủng, giữa xà trung và xà hạ lắp ván bưng chạm thủng hoa cúc và vân xoắn, mang hình thức điển hình của nghệ thuật thời Mạc. Phần dưới là tai cột chạm vân xoắn và đao, tạo hình cánh gà ôm lấy hai bên cột. Đế của khám là một đài sen với ba lớp ngửa rõ ràng theo phong cách Mạc, và một lớp úp đầy chất cách điệu. Thân đế được bưng ván, có bổ trụ để mỗi mặt chia thành ba ô, mỗi ô cũng trang trí hình hoa cúc và những vân xoắn cách điệu. Ở đây có một hiện tượng đặc biệt rất đáng quan tâm: các hình trang trí không phải được chạm thẳng lên mặt gỗ mà được làm bằng sơn then trộn mạt cưa, lèn vào khuôn rồi dán vào mặt gỗ. Đế của khám được làm cong hình lợi chậu và có kết cấu kiểu chân quỳ dạ cá, đồng thời là một hợp thể của các vân xoắn lẫn trong một bố cục cân xứng.

Khám ở đền Bà Tấm phần nào tương tự như khám ở Văn Miếu, mang nhiều dáng dấp của kiến trúc với bốn mái kiểu mui luyện, các cột góc khá cao và cũng đội hệ thống xà đai cùng khá nhiều đấu củng ba chạc. Mặt trước của khám được bổ cửa bức bàn, với y môn (áo cửa) chạm rồng chầu hoa cúc. Đây là những con rồng mang phong cách Mạc rõ rệt. Mặt sau của thân khám, phần trên bổ ba ô nằm ngang, hai ô đầu chạm hoa cúc cách điệu, ô giữa chạm rồng trong khung tròn (trời), ngoài lồng khung vuông (đất). Rồng phảng phất phong cách của rồng thời Lê sơ. Những mảng chạm khác cũng được làm rất kỹ với những hoa cúc và vân xoắn dưới dạng tay mướp. Đây là một chiếc nhang án khá đặc biệt, ngoài giá trị nghệ thuật, nó còn giúp nhiều cho việc nghiên cứu về kiến trúc thời Mạc.

Khám Thờ Thế Kỷ XVII và Thế Kỷ XVIII

Khám ở thế kỷ XVII tuy vẫn được chạm trổ rất kỹ, song bố cục của nó đã giảm bớt yếu tố kiến trúc mà mang tư cách như một am thờ. Ở đền Lạch Bạng (Tĩnh Gia – Thanh Hóa), chiếc khám được làm dưới dạng mui luyện dài, kết cấu mặt trước và sau tạo nên dáng dấp của một bộ vì “vỏ cua”, tạo những “hoành” giả. Bộ vì này được thể hiện theo kiểu bưng kín bằng ván, mang tư cách như một trán bia. Dưới “vì” là hệ thống xà đai nhô đầu theo kiểu thời Mạc. Song, các bộ phận này được chạm trổ kín đặc với đề tài mặt trời, đao mác, rồng… khiến cho người ta bị hút vào nghệ thuật điêu khắc mà quên đi nghệ thuật kiến trúc. Phần thân của khám được chạm trổ rất kỹ dưới dạng bổ ô lớn với các đề tài quen thuộc như rồng và hoa cỏ thiêng, những đường diềm với sự lặp đi lặp lại của đấu củng đã chuyển hóa sang tính chất trang trí, hoặc những đường diềm chạm nửa bong nửa nổi đề tài hoa thiêng cách điệu hay hàng cánh hoa sen, v.v… Sự “thao diễn” của nghệ thuật chạm khắc đã tạo cho những chiếc khám của thế kỷ XVII mang nét cao sang, trang trí gần như kín đặc, song các đề tài luôn luôn chuyển đổi nên không bị rối mà trở nên khá vui mắt.

Khám Thờ Dưới Thời Nguyễn

Khám của thời kỳ sau, nhất là dưới thời Nguyễn, có nhiều dạng. Có cái rất lớn, chạm trổ công phu, với mặt trước không chỉ có một y môn và một bộ cửa mà đôi khi tạo thế tầng tầng lớp lớp như ken nhau. Cũng có khám lại được làm hết sức đơn giản, nhỏ bé, được kết hợp bởi mấy tấm ván trơn sơn màu đỏ. Song nhìn chung, ít có khám mui luyện, mà thay vào đó là ván trần thường làm chéo xuống từ trước ra sau… Chiếc khám thờ lớn khá điển hình là ở đền Dầm (Thường Tín – Hà Tây). Khám được đặt ở trung tâm hậu cung, nơi ngự của Mẫu Thoải. Người xưa đã phô diễn nghệ thuật chạm trổ với nhiều đề tài chi tiết ở khắp ba mặt của khám, với một lòng thành kính đặc biệt. Đó là những lớp rồng chầu và hoa lá cách điệu mà các tín đồ đạo Mẫu đã đồng nhất gọi là “trướng rủ màn che”… Kiểu khám như nêu trên cũng còn gặp ở nhiều điện Mẫu khác. Vào thời kỳ này, người ta thường nghĩ không gian trong lòng khám chứa đựng sức linh nhất định, đồng thời nhận thức của con người có cởi mở hơn nên nhiều nơi đã làm khám, mà điển hình như ở chợ Viềng (Nam Định), ít nhiều nó trở thành một thứ hàng hóa trong sinh hoạt tâm linh dân dã, để rồi chiếm vị trí trang trọng trên bàn thờ tổ tiên của nhiều gia đình.