Với người Việt, trong mỗi khuôn viên bao giờ cũng có một ngôi nhà chính dùng vào những việc quan trọng như thờ phụng, tiếp khách, sinh hoạt, ngủ, và cất chứa tài sản quý. Ngôi nhà ấy thường có số gian lẻ, hay trừ phần làm buồng thì số gian nhà ngoài là số lẻ, và như thế bao giờ cũng có một gian giữa. Chính phía trong của gian giữa bao giờ cũng được dành làm nơi thờ, còn phía ngoài là nơi tiếp khách quý. Đây là trung tâm của nội thất, chỗ trang trọng nhất, các sinh hoạt khác có diễn ra ở gian bên cũng đều hướng về đấy. Gian giữa lại luôn có cửa lớn ra vào, mở cửa là nhìn thấy trời đất lưu thông, âm dương hòa đồng để rồi cảm hóa lẽ đời.
Bàn thờ gia tiên của người Việt cũng phần lớn được đặt ở hướng nam, hàm ý con cháu tôn vinh gia tiên là những bậc hiền tài theo tinh thần “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” (Thánh nhân ngồi ngoảnh mặt hướng nam mà nghe thiên hạ tâu bày).
Tùy quy mô ngôi nhà, và cũng tùy mức sống của chủ nhà mà bàn thờ có kích thước và hình thức khác nhau. Những gia đình nhà tranh vách đất với những đồ đạc trong nhà cũng đơn sơ, thì bàn thờ thường chỉ là vạt phên tre giữa hai cột trong của gian giữa, bên trong có bát hương nhỏ, đến ngày Tết có thể được dán tranh chủ ở giữa vẽ những thứ như ở một bàn thờ nhà khá giả, hai bên dán câu đối, cũng tạo ra một cảnh sắc trang trọng và sáng sủa để khỏi tủi vong linh ông bà.
Ở những gia đình thuộc loại thường thường bậc trung trở lên, thì nơi ở là nhà ngói, thường là gạch. Ăn nhập với khung nhà bằng gỗ xoan sáng vàng hay gỗ lim đanh chắc, là những đồ gỗ như giường phản, có thể có sập gụ tủ chè sang trọng, thì bàn thờ được đóng đàng hoàng. Phần trong cùng là gác lửng đóng nôi giữa hai cột trong, ngoài kê thêm sập thờ, nhang án, phía trên có treo hoành phi và hai bên treo câu đối sơn son thếp vàng. Trên bàn thờ có thể có khám, ngai hay ít ra cũng đặt bài vị được chạm khá cầu kỳ và sơn thếp cẩn thận. Trước bài vị được đặt bình hương sứ to để khi thắp những nén hương vừa gợi ra bầu trời sao, vừa dâng truyền ý nguyện con cháu lên những đấng anh linh ở thiên không, phía ngoài còn bát nước trắng và đĩa trầu cau. Có thể có thêm đỉnh trầm bằng đồng, bên cạnh có một hoặc hai chiếc độc bình vừa biểu hiện tân thành vừa để cắm hoa trong ngày Tết và giỗ chạp. Hoa cắm thờ thường là hoa huệ biểu hiện trí tuệ với sự thanh cao cả ở hương và sắc, ngày Tết hay cắm cành đào rực hoa, vừa biểu hiện sắc xuân với bầu trời rạng rỡ, vừa theo quan niệm xưa là để trừ ma quỷ. Lại còn cây đèn bằng đồng (hoặc gỗ sơn) để khi thắp đèn nến thì gợi ra cả vũ trụ với mặt trời. Nhang án gia đình khá giả được làm khá công phu với những ô hộc chạm tứ linh, dù đơn giản cũng phải được sơn thiếp, có khi được tính kích cỡ rất cẩn thận.
Bàn thờ ấy luôn gợi lên một chiều sâu tâm linh, cây có gốc, nước có nguồn vừa nhân bản vừa vun đắp truyền thống, đồng thời là niềm tự hào của gia chủ về gia tiên và về cách dạy con cháu.
Bàn thờ gia tiên là biểu hiện nếp sống văn hóa, biết vun trồng gốc để cây đơm hoa đẹp, rồi kết trái ngọt, do đó nó cần thiết đối với mọi người, mọi nhà. Song ngôi nhà bây giờ đã khác trước, bàn thờ là một thành tố của nội thất cũng phải thích hợp với toàn cảnh, ở nông thôn, ngôi nhà ít biến đổi, kiểu bàn thờ cổ truyền vẫn phát huy tác dụng, song với những ngôi nhà mái bằng thường có nhiều đồ gỗ kiểu mới và đồ điện hiện đại, thì chiếc hương án cầu kỳ lại không ăn nhập. Cũng thế, ở những khu tập thể, bên cạnh dãy nhà cấp 4 lụp xụp lại có những ngôi nhà cao tầng, mỗi gia đình một căn hộ với hướng nhà và hướng của khá tùy tiện, ở đấy, vấn đề bức bách là không gian, có thể dùng mặt tủ làm bàn thờ hoặc đóng cái giá gác vào vị trí trang trọng và có độ cao thích hợp để khi cúng thì mọi người tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính. Mặt tủ đã thành bàn thờ thì chỉ nên để đồ tế khí. Đã là bàn thờ phải có bát hương, có điều kiện thì thêm bình hoa, cây đèn, ống hương, hoa, đèn, nước, trái cây, đĩa xôi hoặc phẩm oản, và theo phong tục dân tộc thêm đĩa trầu cau.
Trong các gia đình, trừ trưởng tộc và trưởng chi vừa thờ tổ họ và tổ ngành vừa thờ gia tiên mình, các nhà con trưởng thì thờ mấy thế hệ gần nhất, còn từ đời thứ 5 thì nhập chung vào lễ tế Tổ, phần lớn các gia đình là con thứ, thì đồng thời theo thờ bố mẹ ở nhà con trưởng, còn thờ thêm ở nhà mình. Do đó nếu có chân dung gia tiên xa thì để ở nhà con trưởng, nhà con thứ chỉ cần thờ chân dung bố mẹ. Tuy nhiên, bàn thờ gia tiên là thờ chung, không cần thiết phải có chân dung, thường chỉ có bài vị tượng trưng. Chân dung chỉ cần thiết ở bàn thờ tang.
Bàn thờ gia tiên là một bộ phận trong không gian gia đình, nó tham gia vào nội thất với tính chất trang nghiêm, lịch sự và thẩm mỹ. Mỗi gia đình tùy không gian cho phép, tùy tương quan với tiện nghi sinh hoạt khác có thể làm những bàn thờ thích hợp và đồ tế khí phù hợp, làm sao cái đẹp ở đây phải đảm bảo văn hóa cả chiều sâu tâm linh và mặt bằng hình sắc.
Trước kia, các làng quê chủ yếu sống bằng ruộng đất, chăm sóc cây trồng và chăn nuôi gia súc. Chợ búa chỉ là nơi trao đổi các nông sản do gia đình làm ra ở dạng nguyên thủy, không chế biến thành hàng hóa. Một vài hàng quà bánh hoặc hàng xén có hình thức chuyên nghiệp, nhưng vẫn gắn bó với nông thôn, vốn liếng nhỏ mọn, vào dạng tiểu thương, khi cần huy động lao động nông nghiệp, họ vẫn có thể tham gia thành thạo. Tất cả mọi tầng lớp dân chủng đều quần tụ trong luỹ tre làng, ít khi lên tỉnh, lên huyện. Họ hiểu rõ về nhau, vì chỉ có nội tác ngoại có dây mơ rễ má với nhau.
Các gia đình quần tụ bên nhau, san sẻ chỗ ăn, chỗ ở với nhau. Có nhà lên tới mức đại đồng, đủ hai cụ, ông bà, cha mẹ, con cháu, lại còn các chú, các bác, các cô, các bá, các thím nữa. Thường thì hai cụ ở gian giữa ngôi nhà lớn; ông bà ở một chái hoặc nhà ngang; vợ chồng cháu trưởng ở một chái. Hai dãy nhà tả hữu chính đường chia cho các bác, các chú, các thím ở. Nếu hai cụ còn khỏe mạnh, minh mẫn thì cắt đặt công việc đồng áng cho con cháu, bằng không thì quyền ở ông bà hoặc anh trưởng. Công việc thì làm chung, sản phẩm thu hoạch được, chia theo từng bếp, nấu nướng riêng cho tiện sinh hoạt. Mọi người đều ý tứ, biết kính trên nhường dưới, nhất nhất nghe lời các bề trên chỉ bảo, rau cháo đùm bọc lấy nhau, không để điều tiếng gì khiến xóm làng dị nghị.
Với phương thức sinh hoạt như thế, nên ngày giỗ, ngày Tết phải tập trung ở ngôi nhà lớn. Tất yếu bàn thờ gia tiên phải đặt ở gian giữa chính đường. Bàn thờ càng uy nghi rực rỡ bao nhiêu, càng nâng cao ý thức của con cháu đối với gia tiên, dòng họ sâu nặng bấy nhiêu. Các cụ đem gia phả ra dẫn giải về ngày kỵ nhật, nói rõ gốc tích và sự nghiệp của người đã khuất, giáo dục các hậu duệ lòng kính trọng, biết ơn, phấn đấu làm vẻ vang cho gia tiên và dòng họ. Người ta làm cỗ cúng bằng những sản phẩm nông nghiệp tự