A. THỜ CÚNG GIA TIÊN
Thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ là một việc không thể thiếu trong phong tục của người Việt Nam. Việc làm này xuất phát từ lòng thành kính, biết ơn của con cháu đối với những người đã có công sinh thành, dưỡng dục. Người Việt Nam luôn luôn tin tưởng vào sự phù hộ của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và tin rằng họ đang hiện diện quanh mình, cho nên mọi việc tốt xấu xảy ra trong gia đình, con cháu đều cúng cáo gia tiên.
1. NGHI LỄ CÚNG CÁO GIA TIÊN
Thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã qua đời là lập bàn thờ tại gia và cúng bái hương khói vào những ngày sóc, vọng, giỗ, tết. Theo tục lệ, vào ngày cuối tuần, ngày kỵ, hoặc khi gia đình có những biến cố xảy ra như việc hiếu, hỷ, sự kiện lớn,… mọi người đều làm lễ cáo gia tiên, trước là để trình bày sự kiện, sau là để xin gia tiên phù hộ.
Tùy theo hoàn cảnh gia đình, tính chất và quy mô của các lễ, đồ lễ thường có trầu cau, rượu, hoa quả, xôi chè, oản chuối, vàng hương và nước lạnh, hoặc cỗ mặn. Trong trường hợp khẩn cấp cần phải cáo lễ, gia chủ có thể chỉ cần thắp một nén hương và một chén nước lạnh, nhưng nhất thiết phải có lòng thành.
Khi đã bày xong đồ lễ, người làm lễ khăn áo chỉnh tề, thắp ba nén hương cắm vào bát hương rồi cung kính đứng trước bàn thờ khấn. Trước khi khấn phải vái ba vái. Sau khi khấn xong, gia trưởng lễ bốn lễ, thêm ba vái, gọi là “bốn lễ rưỡi”. Hương thắp bao giờ cũng thắp theo số lẻ như 1, 3, 5… vì theo quan niệm của người Việt cổ, số lẻ thuộc về thế giới âm. Sau đó, con cháu trong gia đình lần lượt theo thứ bậc tới lễ trước bàn thờ bốn lễ rưỡi. Nghi thức trên thường chỉ cần thực hiện trong những buổi giỗ chạp. Bình thường, chỉ cần gia chủ khấn lễ là được.
Ngày nay, nghi thức trong lễ bái đã đơn giản hơn. Người ta có thể vái thay cho lễ; trước khi khấn, vái ba vái ngắn. Khấn xong, vái thêm 4 vái dài và ba vái ngắn thay cho bốn lễ rưỡi.
2. LỄ TẠ
Sau khi gia trưởng và mọi người trong gia đình lễ vái xong, chờ cho tàn một tuần hương, lúc đó gia trưởng tới trước bàn thờ cung kính lễ tạ.
Lễ tạ là lễ tạ ơn gia tiên đã chứng giám lòng thành của con cháu và đã nhận được những lễ vật dâng lên. Lễ tạ xong, gia trưởng hạ vàng mã trên bàn thờ đem hóa (tức là đem đốt đi). Sau tất cả các thủ tục lễ tạ xong, đồ lễ mới được hạ xuống. Thông thường, việc lễ tạ chỉ do một mình gia trưởng đảm nhiệm. Nhưng để cung kính hơn, sau gia trưởng, những người khác trong gia đình cũng có thể lễ tạ.
3. KHẤN GIA TIÊN
Sau khi đã dâng lễ vật lên bàn thờ, thắp hương, đèn, nến đầy đủ, người ta bắt đầu khấn. Văn khấn bao gồm một số nội dung mà người khấn phải đọc như: nói rõ ngày tháng làm lễ, lý do lễ, ai là người đứng ra lễ, ghi rõ họ tên tuổi, sinh quán, đồng thời liệt kê lễ vật và cuối cùng là lời thỉnh cầu xin.
Đồ lễ đặt lên bàn thờ, hương đèn đã thắp, gia trưởng phải mời hết các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với tất cả chú bác, cô dì, anh chị em nội ngoại đã khuất.
Trong bài khấn phải nói rõ ngày tháng làm lễ, lý do, liệt kê lễ vật, những điều cầu xin nếu có.
Dưới đây là một mẫu văn khấn:
Hôm nay là ngày… tháng… năm…
Nay con giữ việc phụng thờ, tên là… tuổi…, sinh tại xã… huyện… tỉnh… cùng toàn gia, trước bàn thờ gia tiên cúi đầu bái lễ.
Kính mời Thổ Công, Táo Quân đồng lai cảm cách.
Kính dâng lễ bạc: trầu, rượu, trà, nước, vàng hương, hoa quả cùng phẩm vật, lòng thành nhân dịp sinh hạ cháu trai.
Kính mời hương hồn nội ngoại tiên tổ, cụ kỵ, ông bà, cha mẹ, cô dì chú bác, anh chị em chứng giám và hưởng lễ.
Con kính xin gia tiên phù hộ độ trì cho cháu nhỏ hay ăn chóng lớn và toàn gia khang kiện.
Cẩn cáo.
Trước kia, các cụ đã đặt ra nhiều bài văn khấn Nôm bằng thơ có vần để cho đàn bà, trẻ con học dễ nhớ, dùng trong việc cúng lễ gia tiên.
Dưới đây là một trong những bài khấn ấy:
Bài văn khấn bằng thơ:
Đại Việt tuế thứ…, ngày…, tháng…, năm (âm lịch)
Tín chủ là… tuổi…, sinh quán tại…, trú quán tại… cùng toàn gia,
Cúc cung bái trước bàn thờ,
Kính dâng lễ bạc hương hoa, rượu cần,
Cùng là phẩm vật trước sau,
Lòng thành tâm nguyện thỉnh cầu gia tiên.
Cao tằng tổ khảo đôi bên,
Cao tằng tổ tỷ dưới trên người người.
Cô dì chú bác kính mời,
Đệ huynh đồng thỉnh tới nơi từ đường.
Cúi xin phù hộ khang cường toàn gia.
Cẩn cáo.
Cùng với việc cáo gia tiên, bây giờ cũng phải cúng khấn Thổ Công vì ngài là đệ nhất gia chi chủ, để xin phép ngài cho hương hồn tổ tiên được về hưởng lễ.
Lễ vật cúng gia tiên phải thanh khiết. Cỗ bàn nấu xong phải đem cúng gia tiên trước, không một ai được đụng đến. Trong trường hợp gia trưởng chưa kịp làm cúng vì mâm cỗ nhiều món, chưa chuẩn bị xong thì món nào đã nấu xong phải múc để riêng dành cho việc cúng tế. Sau khi cúng tổ xong, con cháu xin lộc rồi mới được thụ lộc.
4. CHĂM NOM MỘ TỔ TIÊN
Ngoài việc thờ phụng, cúng lễ tổ tiên, còn một việc làm quan trọng biểu lộ lòng hiếu thảo là thường xuyên chăm sóc phần mộ tổ tiên của con cháu.
Hằng năm, trước ngày Tết Nguyên Đán, con cháu tổ chức đi thăm viếng, thắp hương trên mộ, khấn vái mời tổ tiên, ông bà, cha mẹ… về ăn Tết. Ngoài ra, Tết Thanh minh, con cháu cũng đi tảo mộ mang theo vàng, hương, lễ vật để cúng. Có nơi, vào Tết Thanh minh, các gia đình còn mang cả mâm cỗ ra cúng trước mộ.
Trong các dịp này, con cháu chăm sóc, sửa sang và phát quang phần mộ. Trong trường hợp mộ bị sụt lở sẽ được đắp lại.
Người ta cho rằng, trong trường hợp mộ bị sụt lở, bị súc vật đào bới hoặc bị rễ cây đâm xuyên qua xương cốt… là mộ bị động. Tổ tiên sẽ về báo mộng hay ứng điềm cho con cháu biết. Nếu không biết, trong gia đình đó sẽ có người đau ốm, hoặc công việc làm ăn thua lỗ, thậm chí gặp tai bay vạ gió… Khi đó, con cháu phải lập tức đi thăm và sửa chữa phần mộ. Đồng thời, họ phải làm lễ tạ mộ để tạ tội với tổ tiên vì sơ suất để mộ bị xâm hại, hư hỏng.
Lễ tạ mộ gồm trầu, cau, xôi, chuối, rượu, gà, vàng hương. Sau khi đã bày đủ lễ vật trước mộ, con cháu bắt đầu khấn lễ. Đồng thời, con cháu phải cúng cả vị thổ thần nơi có lăng mộ. Điều quan trọng khi tạ mộ bao giờ cũng phải làm sớ. Trong sớ nhờ Thần linh dẫn hồn sứ giả là Ngũ đạo Tướng quân đưa hồn tổ tiên đến mộ. Ngoài ra, cũng nhờ Thần linh chuyển tờ sớ tới Đương Xứ Thổ Địa chánh thần – là vị thần Thổ Địa nơi có ngôi mộ – để xin tạ.
Sớ tạ mộ có loại viết bằng chữ Nho, có loại theo bản dịch ra tiếng Việt. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch ra tiếng Việt:
Tam bảo tư vi tạ mộ pháp đàn
Nay cứ theo địa chỉ tại Đại Việt
Địa chi ở…
Lễ này làm tại nhà chúng con, và theo phép Phật bảo hộ bình an, tín chủ tên là… cúi đầu bày tỏ về việc vong hồn của tiên linh chúng con đã qua đời mà thời gian đã quá lâu, cùng với thời cuộc biến đổi, sợ rằng hồn phách không yên. Bởi vậy, chúng con cần biện lễ vật để tạ mộ, trông ơn đức Phật tế độ vong hồn và đức Thần linh dẫn hồn Sứ giả đưa hồn đến nơi đến chốn. Dẫu rằng âm dương cách biệt, đường xá xa xôi, nhưng nhờ có tờ điệp văn này thì cũng thống cảm được.
Tờ điệp này do quan Dẫn hồn Sứ giả Ngũ đạo Tướng quân chuyển đến quan Đương Xứ Thổ Địa chánh thần, tiếp nhận nơi âm phủ.
Xin quan Sứ giả báo cáo cho các ty, các nơi thuộc hạt như các bến đò, bến chợ đều biết, không ai ngăn cản để cho vong hồn được nhận lĩnh lễ vật, an ổn ở nơi mộ phần, khiến cho kẻ âm dương đều được hưởng phúc lạc.
Nay điệp.
Mộ táng tại… ngày… tháng… năm… giờ…
5. BÀN THỜ GIA TIÊN
Từ xa xưa, trong mỗi gia đình người Việt đều có bàn thờ tổ tiên. Ngoài bàn thờ gia tiên ở chính ngôi nhà chính, còn có nhiều bàn thờ khác như bàn thờ Thổ Công (miền Nam gọi là bàn thờ Ông Địa), bàn thờ Thánh Sư, bàn thờ Bà Cô Ông Mãnh, bàn thờ Thần Tài, bàn thờ Tiền Chủ… Gia đình theo đạo Phật còn có bàn thờ Phật. Những người có căn đồng có bàn thờ Chư vị hoặc lập hẳn một ngôi điện tại một gian nhà riêng để thờ. Nhiều gia đình còn lập bàn thờ Quan Trần Triều (Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn) do ma quỷ sợ uy thần không dám vãng lai phá quấy.
Mỗi bàn thờ có sự bài trí khác nhau, song đều có bát hương, bài vị và ông hương, đèn nến…
a. Bàn thờ tổ tiên
Bàn thờ tổ tiên là bàn thờ chính trong mỗi gia đình Việt Nam. Người ta còn có sự phân biệt giữa nhà thờ họ và nhà thờ trong từng gia đình.
Bàn thờ họ:
Tất cả con cháu cùng một dòng họ lập chung một nhà thờ vị Thủy tổ, gọi là Từ đường của dòng họ. Bàn thờ này có bài vị Thủy tổ dòng họ. Ngày xưa bài vị được ghi bằng chữ Hán. Nhiều dòng họ không có nhà thờ riêng thì xây một đài lộ thiên đựng bia đá, tên thụy, hiệu các tổ tiên. Mỗi khi có giỗ tổ, hoặc có tế tự của một chi họ, thì cả họ hoặc riêng chi họ đó ra đài lộ thiên cúng tế. Đài lộ thiên này là nơi để cúng tế hoặc tổ chức các trò vui trong ngày giỗ tổ dòng họ hoặc một chi họ. Cúng tế xong sẽ về nhà tộc trưởng hoặc trưởng chi cùng ăn uống. Những dòng họ lớn, giàu có thường tổ chức trò vui vào đêm hôm Tiên thường.
Có nhiều họ có nhà thờ riêng với bàn thờ Thủy tổ để cho chi trưởng nam đời đời giữ hương hỏa, và chỉ khi nào ngành trưởng không có con trai nối dõi thì việc cúng bái mới chuyển sang chi dưới.
Có họ, ngoài bàn thờ Thủy tổ chung, con cháu luân phiên nhau thờ tổ ở nhà riêng của mình. Song chỉ là trường hợp của những người đi xa quê hương, không thuận tiện dự ngày giỗ tổ hàng năm và lễ tổ trong dịp Tết được.
Nhà thờ chi:
Nhiều họ lớn chia thành nhiều chi. Mỗi chi lại đông con cháu nên ngoài việc tham gia ngày giỗ tổ toàn họ còn có ngày giỗ tổ riêng của chi họ. Các chi đều có nhà thờ riêng, gọi là Bản chi từ đường.
Hiện nay, trên bàn thờ nhiều gia đình ở nông thôn vẫn còn đặt bức hoành phi mang dòng chữ nói rõ đó là từ đường của chi họ nào. “Từ đường” có nghĩa là nhà thờ. Trên bàn thờ này có bài vị của ông tổ, nên gọi là Thần chủ bản chi. Thần chủ này cũng như Thần chủ của Thủy tổ họ sẽ được thờ mãi mãi.
Người trong chi họ có dành một số ruộng để lấy hoa lợi cúng giỗ, ruộng này gọi là Kỵ điền.
Bàn thờ gia đình:
Bàn thờ riêng của từng gia đình còn gọi là Gia từ hay bàn thờ Gia tiên. Những gia đình giàu có mới xây nhà thờ riêng cho gia đình. Còn phần lớn, bàn thờ gia tiên được thiết lập ngay ở gian giữa nhà chính.
Những người con thứ không cần phải có bàn thờ gia tiên vì không phải cúng giỗ, nhưng vì lòng thành kính với tổ tiên, họ vẫn lập bàn thờ để cúng vọng.
Trang trí bàn thờ tổ
Nhà thờ ở nông thôn thường có ba gian hai chái hoặc một gian hai chái. Bàn thờ tổ bao giờ cũng được thiết lập ở gian giữa nhà chính, nếu gia đình không có nhà thờ riêng.
Bàn thờ tổ gồm hai lớp:
Lớp trong kê sát ngang tường hậu, gồm một chiếc rương hòm rất lớn, cao khoảng 1m, dài hơn 2m, rộng gần 2m. Mặt trước rương đóng nẹp chia làm 3 – 5 ô. Các ô này có khi là ba chữ đại tự, có khi là những bức tranh được dán trong dịp lễ Tết. Trên các nẹp có những đồng tiền. Trong rương đựng bát đĩa, nồi, sanh đồng dùng khi giỗ Tết.
Những gia đình khá giả thay chiếc rương bằng một chiếc bàn thờ to và một chiếc sập sơn thếp vàng lộng lẫy, kê trên bộ mễ cao khoảng 1m. Phía trước có tấm màn đỏ che những mâm thau, đồ đồng, bát đĩa được xếp dưới gầm sập.
Kê giữa chiếc rương hoặc sập có ít nhất hai chiếc mâm nhỏ chân quỳ, mặt hình chữ nhật: một chiếc dài khoảng 8 tấc, rộng khoảng 6 tấc. Chiếc thứ hai nhỏ hơn, kê phía sau chiếc thứ nhất. Cả hai cao khoảng 4 tấc, trông giống như hai chiếc bàn nhỏ thấp, dùng để bày đồ lễ. Trong những ngày giỗ Tết, cỗ được bày trên bàn thứ nhất, còn hoa quả, trầu nước được bày trên chiếc mâm thứ hai nhỏ hơn.
Bên trong cùng lớp trong là Thần chủ đựng trong long khám kê trên một chiếc bệ cao bằng hai chiếc mâm. Nhiều gia đình không thờ Thần chủ mà chỉ kê ở nơi này một chiếc kỷ hoặc chiếc ngai tượng trưng cho ngôi vị tổ tiên.
Đối với những gia đình giàu có, các đồ thờ này được sơn son thếp vàng. Riêng chiếc ngai hay tay ngai đều mang hình đầu rồng. Rồng – đứng đầu tứ linh – thường được dùng trang hoàng cho đồ tự khí. Trên chiếc mâm nhỏ kê bên trong, trước Thần chủ hoặc ngai, có một cái tam sơn – một đồ thờ để đặt trầu, chén rượu, ly nước, đĩa hoa quả trong những khi cúng giỗ.
Lớp bàn thờ bên trong được ngăn với lớp bên ngoài bằng một bức y môn, tức là một chiếc màn thờ màu đỏ bằng the, nhiễu hay vải tùy theo điều kiện gia đình. Y môn treo cao, thõng xuống che kín toàn bộ bàn thờ lớp trong.
Lớp ngoài, bắt đầu từ y môn trở ra, gồm: một hương án kê gần sát y môn. Trên hương án đặt một bình hương bằng sứ ở chính giữa để cắm hương khi cúng bái. Đằng sau bình hương là một chiếc kỷ nhỏ, cao khoảng 3 phân, dài 50 phân, rộng 25 phân, đặt ba chiếc đài có nắp (trên nắp có núm để cầm). Khi mở nắp đài ra, nắp được kê xuống dưới, đài đặt lên trên. Đài làm bằng gỗ, tiện rỗng dưới đáy để khi đặt lên nắp sẽ khớp vừa vặn. Ba đài này dùng đựng chén rượu nhỏ lúc cúng giỗ, còn ngày thường được đậy nắp để tránh bụi bặm.
Hai bên thường đặt hai cây đèn cao khoảng 40 phân, chân tiện, lưng chừng có vành rộng gọi là đĩa đèn. Ngày xưa, trong những lần cúng giỗ, người ta đặt lên hai cây đèn này hai đĩa dầu lạc để đốt bấc. Sau này thay bằng hai ngọn đèn Hoa Kỳ. Ngày nay, người ta gắn trực tiếp bóng điện vào hai cây đèn.
Gần hai bên bình hương, ngoài hai cây đèn còn có hai con hạc đồng chầu hai bên. Trên đầu hai con hạc có chỗ để thắp nến. Mé ngoài hai cây đèn, gần hai đầu hương án là hai ống đựng hương. Hai ống hương bằng gỗ, miệng loe. Ngoài ra còn có lọ độc bình hoặc song bình để cắm hoa. Nếu dùng độc bình thì đối diện với nó là mâm bồng để bày ngũ quả khi cúng giỗ.
Tất cả các vật như bàn, kỷ, ngai, đồ thờ trên hương án như kỷ nhỏ, đèn, ống hương… đều làm bằng gỗ mít để ít bị mối mọt. Sang hơn thì được sơn son thếp vàng. Các gia đình giàu có dùng đồ bằng đồng, gọi là bộ tam sự, ngũ sự, hoặc thất sự. Trong bộ tam sự, chiếc đỉnh đồng thay cho bình hương, hai bên là hai con hạc đồng, mỏ ngậm bông hoa, đầu có chỗ cắm nến. Ngũ sự thêm hai ống hương, thất sự thêm đôi đèn.
Ngoài ra, các gia đình khá giả còn bày giá binh khí trước bàn thờ, có cắm bát bảo lộc bộ (tám binh khí của quân sĩ thời xưa). Những đồ tự khí này là vật quý và thiêng liêng. Dù túng thiếu, không ai dám đem cầm bán.
Chiếc y môn
Y môn là bức màn vải đỏ, dùng làm màn ngăn cách lớp bàn thờ bên ngoài và lớp bên trong. Y môn gồm hai cánh, xung quanh có thêu, được treo thõng xuống che kín lớp bàn trong. Y môn có thể làm bằng nhiễu, the hoặc vải màu đỏ. Trên cùng có một dải lụa hoặc nhung, thường được thêu hoặc dán chữ đại tự.
Đèn treo
Người ta thường treo trước y môn một chiếc đèn, dân gian gọi là tự đăng. Vào dịp giỗ, tế, chiếc đèn này được thắp suốt ngày đêm. Người xưa cho rằng trong những ngày này, hương hồn người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ, và ngọn đèn tượng trưng cho sự hiện diện của tổ tiên.
Đèn treo ngày xưa là đĩa dầu lạc, dầu vừng… đặt trong đèn lồng, sau là đèn ba dây thắp dầu lửa. Ngày nay chủ yếu dùng đèn điện hoặc nến.
Thần chủ
Trên bàn thờ tổ của một dòng họ bao giờ cũng có Thần chủ, và được thờ phụng mãi mãi. Đối với những gia đình giàu sang muốn lập bàn thờ tại gia, lập thần chủ để thờ thì phải có đủ thần chú của cụ kỵ, ông cha – tức là Cao, Tằng, Tổ, Khảo.
Thần chủ làm bằng gỗ táu (loại cây sống ngàn năm), dài khoảng 2,5 phân. Ở giữa đề tên họ, chức tước; hai bên ghi ngày sinh, ngày mất của tổ tiên.
Thần chủ thường được để trong long khám, chỉ mở ra khi cúng giỗ. Thần chủ chỉ thờ 4 đời trở xuống. Đến đời thứ năm, thần chủ của Cao tổ được đem mai đi, các bậc Tằng, Tổ, Khảo được nâng lên một bậc, và đưa ông mới vào thay thế Thần chủ Khảo. Việc mai thần chủ cao tằng này gọi là Ngũ đại mai thần chủ, nghĩa là thần chủ sang đời thứ năm được chôn đi.
c. Gia phả
Bất cứ nhà thờ nào trước đây đều cất giữ cuốn sổ ghi chép thứ bậc trước sau của tổ tiên và các thế hệ nối tiếp từ đời này qua đời khác. Cuốn sổ đó được gọi là cuốn gia phả. Sổ gia phả ngày xưa được làm bằng giấy sắc, viết rất rõ ràng, nắn nót để tỏ lòng thành kính đối với tổ tiên. Nó thường được đặt trong khám hoặc trong một lớp riêng để trên bàn thờ.
Những dòng họ lớn, gia phả được chép tay hoặc in sao thành nhiều bản, mỗi chi họ một bản để con cháu hiểu rõ về tổ tiên mình.
Trong gia phả, mỗi vị tổ tiên đều được ghi những dòng trích ngang: ngày tháng sinh tử, tên họ, chức tước, có khi còn ghi cả tính tình, sở thích của các vị lúc sinh thời. Trong đó còn ghi rõ vị nào sinh ra những ai, ngành trưởng, ngành thứ là những ai.
Gia phả cũng ghi chép đầy đủ công trạng của tổ tiên: sinh ở đâu, táng ở đâu, được nơi nào thờ phụng làm phúc thần hay thành hoàng làng đối với những người đã từng là công thần, có công với dân với nước.
d. Hoành phi
Trong các nhà thờ họ đều treo một tấm biển gỗ nằm ngang phía trên mặt trước của bàn thờ. Chiều ngang tấm biển ăn suốt gian nhà, dài khoảng 3 thước, rộng khoảng 1 thước đến 1 thước hai. Trên tấm biển đó khắc những chữ lớn, thường chỉ khắc được từ 3 đến 4 chữ là cùng. Tấm biển đó được gọi là bức hoành phi.
Bức hoành phi thường được sơn son thếp vàng, sơn đen chữ đỏ hoặc chữ vàng, hay chạm khảm xà cừ. Có gia đình cầu kỳ làm hoành phi theo hình thức cuốn thư rất đẹp. Nhà nghèo có thể làm hoành phi bằng gỗ thường hoặc tấm cót ép, đóng nẹp vuông vắn, dán lót giấy đỏ, viết đại tự thay cho bức hoành phi.
Ý nghĩa của đại tự viết trên hoành phi mang nội dung ca tụng công đức của tổ tiên hoặc thể hiện lòng kính trọng của con cháu đối với tổ tiên, như:
-
Kính như tại: Có nghĩa là con cháu kính trọng tổ tiên như tổ tiên luôn hiện diện trên bàn thờ.
-
Phúc mãn đường: Có nghĩa là gia đình đầy đủ phúc đức.
-
Bách thế bất thiên: Bao giờ con cháu ăn ở cũng đúng mực, không thiên lệch.
Trên bức hoành phi còn có ghi niên hiệu năm làm, mùa nào, tháng nào. Nếu là bức hoành phi do một người con cháu nào đó cúng thì có ghi tên tuổi người đó. Hoành phi có ghi tên người cúng phần lớn là hoành phi treo tại các nhà thờ tổ họ hoặc trưởng chi họ.
đ. Câu đối
Ở hai cột phía trước bàn thờ hoặc trên tường có treo mỗi bên một câu đối. Nhà khá giả thường viết câu đối sơn son thếp vàng hoặc sơn đen khảm xà cừ. Còn nhà nghèo thường chỉ viết câu đối trên giấy hồng. Nói chung, các bức hoành phi hay câu đối đều được viết bằng chữ Hán, nhưng cũng có gia đình viết cả câu đối và hoành phi bằng chữ Nôm.
Cũng như bức hoành phi, nội dung câu đối nhằm thể hiện lòng kính trọng của con cháu đối với tổ tiên hoặc ca tụng công đức của tổ tiên, ví dụ:
Tổ tông công đức thiên niên thịnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại xưng
Có nghĩa là:
Công đức tổ tông nghìn năm thịnh
Hiếu hiền con cháu vạn đời nêu danh
Hoặc một câu đối treo ở gia đình có ông cha từng có công với nước:
Tổ tiên phương danh lưu quốc sử
Tử tôn tích học kế gia phong
Đại ý là:
Tiên tổ danh thơm ghi sử nước
Cháu con cố gắng học nối gia phong
6. BÀN THỜ NGƯỜI MỚI QUA ĐỜI
Những người mới qua đời không được thờ chung với bàn thờ gia tiên, mà phải lập bàn thờ riêng ở gian bên. Bàn thờ người mới mất thường đơn sơ hơn bàn thờ gia tiên, chỉ gồm một bệ dài, lư hương, lọ hoa và bài vị. Ngày nay, ngoài bài vị còn có thể đặt bức chân dung hoặc tượng của người quá cố. Bàn thờ riêng này cũng có thể được treo các bức trướng, câu đối do gia chủ hoặc bạn bè thân hữu phúng viếng.
7. THỜ BÀ CÔ, ÔNG MÃNH
Theo quan niệm của người Việt Nam, bà cô, ông mãnh là những con cháu trong gia đình chết yểu, chưa dựng vợ gả chồng, nhưng do gặp giờ linh nên trở nên linh thiêng. Sự linh thiêng này thường được gia chủ cảm nhận qua sự báo mộng của người đã khuất, được những người trong gia đình xác nhận qua một vài hiện tượng kỳ lạ xảy ra sau khi người đó mất.
Thực tế, bà cô, ông mãnh mất ngoài ba năm cũng được thờ chung trên bàn thờ tổ tiên. Tuy nhiên, do tuổi nhỏ, không dám “về” hưởng lễ chung với các cụ, cũng giống như trong cuộc sống trần thế, vào ngày giỗ tết, con trẻ không được ngồi ngang hàng với người lớn. Vì vậy, bàn thờ bà cô, ông mãnh thường được đặt dưới gầm hương án của bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ này rất đơn giản, chỉ có một chiếc bệ đặt bài vị. Nhiều gia đình thậm chí không có cả bài vị.
Trước bài vị là một bát hương nhỏ, cùng vài ba chiếc đài để đặt ly rượu, đĩa trầu cau, tách nước khi cúng, và một cây đèn nhỏ. Những gia đình có nhiều bà cô, ông mãnh thì thờ chung một bàn với một bát hương, nhưng cũng có nhà lập riêng một bát hương cho từng người.
Gặp lúc trong nhà có trẻ nhỏ hay ốm đau, người ta thường khấn xin bà cô, ông mãnh phù hộ cho đứa trẻ chóng khỏi bệnh. Khi cúng bà cô, ông mãnh, gia trưởng chỉ lâm râm khấn vái, không làm lễ lớn, vì họ thuộc hàng cháu con trong gia phả.
8. Ý NGHĨA ĐỒ TỰ KHÍ
-
Cái tam sơn: Tượng trưng cho tam giới (thiên – địa – nhân).
-
Lư hương tròn: Tượng trưng cho bàn Thái Cực.
-
Hương được thắp lên: Tượng trưng cho các vì tinh tú.
-
Đôi đèn: Tượng trưng cho Nhật – Nguyệt, quang minh.
-
Lọ hoa: Thường là lọ lục bình (hình lục giác), tượng trưng cho tâm không – tức là lục căn thanh tịnh.