Chùa Côn Sơn (Hải Dương)

Đồng chí Tạ Uyên sinh năm 1898, quê làng Côi Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ năm 1927. Năm 1929, đồng chí hoạt động tại Ninh Bình, bị bắt và đày ra Côn Đảo; năm 1934, vượt ngục về hoạt động ở Hậu Giang. Năm 1940, đồng chí là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, bị địch bắt và sát hại ngày 10-12-1940.

Chùa Côn Sơn nhìn về hướng đông nam, tên chữ Hán là Thiên Tư Phúc tự, nghĩa là ngôi chùa được trời ban phúc lành. Thời Trần, chùa thuộc xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là nơi tụ hội khí thiêng của trời đất để ban phát cho dân lành, nhất là cho chúng sinh có Phật quả. Nhân dân thường gọi là chùa Hun, với ý nghĩa giả định như sau: Theo sự tích truyền lại, thì Côn Sơn xưa rừng rậm um tùm, dân quanh vùng thường vào đốt củi lấy than, khói bụi mù mịt cả vùng nên được gọi là núi Hun. Một thuyết khác lưu truyền rằng: Vào thế kỷ X, trong quá trình dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất quốc gia, Đinh Bộ Lĩnh đã sai tướng Nguyễn Bặc dùng hỏa công vây bắt sứ quân Phạm Phòng Át (tức Phạm Bạch Hổ), làm cả vùng núi Côn khói mù mịt nên gọi là núi Hun, và tên chùa được gọi theo tên núi.

Ngay trước ngôi chùa là một hồ nước, vốn dưới dạng tự nhiên, được coi như “não thủy,” “minh đường.” Vượt qua một sân rộng đến tam quan với ba cửa vào. Tam quan chùa ít nhiều theo dáng mẫu từ chùa Kim Liên (Hà Nội), giống như một “tam sơn” với “núi giữa” cao, “núi bên” thấp. Song, ở một khía cạnh khác, từ kết cấu hai lớp mái cho thấy, ngoài ý nghĩa gắn với đạo Phật, hình dáng tam quan chùa còn mang ý nghĩa dung hòa với Dịch học của Nho giáo: tạm coi mái trên nhẹ, tượng Dương; mái dưới nặng, tượng Âm; bốn phía mái ứng với Tứ tượng (Thái âm, Thái dương, Thiếu dương, Thiếu âm); tám lá mái tượng cho Bát quái… Nhìn chung, trong kết cấu này, đã chứa đựng một tư duy nông nghiệp để cầu phát sinh, phát triển, cầu mùa màng tốt tươi, phản ánh ước vọng ngàn đời của con người, mong sao sức mạnh của những siêu lực vũ trụ góp phần vào sự đối đãi âm dương sinh ra muôn loài, muôn vật, đảm bảo cho hạnh phúc trường tồn. Tuy nhiên, đã là tam quan của chùa thì kiến trúc này vẫn như một “tuyên ngôn” của Phật pháp để chỉ về “Không quan” nhằm nói về bản thể cốt lõi, “Giả quan” để nói đến quy luật vô thường (không tồn tại vĩnh viễn của muôn vật) và “Trung quan” là lối nhìn trí tuệ đi đến giải thoát dẫn về cõi Niết bàn. Rõ ràng, với ý nghĩa ấy, chúng ta có thể tạm hiểu, tam quan của chùa Hun tuy mới dựng, song về hình thức vẫn theo kiểu cách truyền thống và vẫn giữ được những ý nghĩa cơ bản để nói lên tinh thần văn hóa Việt muôn đời, muôn thuở.

Sau tam quan là nhất chính đạo, con đường dẫn vào cõi thiêng liêng. Từ xa xưa, con đường này được để tự nhiên, mộc mạc, đặc biệt hai bên có trồng những cây thông (cổ thụ), nhắn nhủ rằng đây là con đường trí tuệ, dẫn đến giác ngộ và đi tới giải thoát. Đứng trước con đường này, phật tử như cảm thấy mình đứng bên bờ của giác ngộ, tự dẹp lòng trần (sự giày vò của kiếp đời) mà khởi lòng tĩnh để vượt qua chính mình, tiến đến không phân biệt giữa ngã nhân và tha nhân (ta và người). Bởi thông có nghĩa là thông hiểu, để từ đầu con đường đến cuối con đường là sự tăng trưởng của nhận thức dẫn tới “lậu tận thông” (sự thông hiểu đến tột độ). Cuối đường thông là tòa gác chuông với kết cấu hai tầng tám mái, với ý nghĩa cũng phần nào tương đồng như ở tam quan. Song, trước kia ở nơi đây có treo một quả đại hồng chung để “sáng chiêu” làm thức tỉnh lòng người trước khi chìm vào sự giày vò của kiếp đời nhân thể; và mỗi chiều muộn, cũng lại 108 tiếng chuông, rung lên theo những lời kinh, để diệt trừ toàn bộ phiền não cho thế gian, nhắc con người luôn hướng tới thiện tâm. Các cụ cao niên còn nói rằng, tòa nhà cùng với đại hồng chung là một sự hòa quyện chặt chẽ giữa hai hệ tư tưởng lớn Phật giáo và Nho giáo để ban phúc cho đời (kiến trúc theo tinh thần Dịch học và tiếng chuông mang tư cách chân lý thuộc Phật pháp). Nơi đây cũng biểu hiện tâm Bồ Tát “từ, bi, hỷ, xả,” bởi mỗi khi tiếng đại hồng chung rung lên thì những linh hồn tội lỗi có thể trở về miền thánh thiện, nghe tiếng chuông, hưởng tuần hương mà giác ngộ rồi phiêu diêu vào cõi vĩnh hằng.

Qua gác chuông vào sân với những cây cối linh thiêng như cây đại mang tư cách “thiên mệnh thụ,” rồi những cây thông… cả một miền thánh thiện tràn xuống trần gian để những chúng sinh có tâm Phật bước vào cõi thiêng liêng – nơi thờ các đức Phật và các thần linh liên quan. Hiện nay, trên sân trước cửa chùa còn nhiều tấm bia quý như: “Thanh Hư động” có từ thế kỷ XIII, XIV. Song bia đứng trên rùa và đường diềm hoa dây đơn, đặc biệt là rồng gãy khúc ở mặt trước…, với hình thức kể trên, một nhà nghiên cứu dân tộc học mỹ thuật truyền thống đã nhận ra bia mang phong cách Mạc, niên đại vào năm 1602 (niên hiệu Hoàng Định thứ 3)… Nơi đây còn tấm bia trụ đề “Côn Sơn tự” với tạo dáng khó tìm thấy ở nơi khác, được làm năm 1607. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Côn Sơn (ngày 15-2-1965), Người đã dừng chân chiêm ngưỡng tấm bia này, cho thấy sự trân trọng văn hóa truyền thống của vị lãnh tụ tối cao của dân tộc.

Ngoài ra, ở sân chùa còn một tấm bia bẹt được chạm trổ đạt tới nghệ thuật cao ở giữa thế kỷ XVII (niên hiệu Thịnh Đức thứ 1-1653). Một tấm bia trụ khác đề: “Côn Sơn Tư Phúc tự bi” được làm vào năm 1607, mang giá trị nghệ thuật dân gian với những mặt rồng ngang có vẻ đẹp đặc biệt, đầy phóng khoáng. Mặt rồng như mặt người kèm theo sừng trâu lớn. Hai tấm bia trụ này có hình thức như ẩn chứa ý nghĩa của Phật đạo, như một “trục vũ trụ,” nối tầng dưới với tầng trên, mà búp trụ tượng trưng cho thế giới giải thoát với dáng gần gũi chiếc tịnh bình chứa nước cam lồ; thân trụ sáu mặt nhắc ta nghĩ tới lục căn, lục trần, lục đạo trong tinh thần Phật pháp vô biên.

Từ sân chùa, bước qua bảy bậc đá lên tiền đường. Con số bảy là số phiếm chỉ, tức số nhiều, người ta dễ nghĩ tới bảy bước đi của đức Thích Ca khi mới lọt lòng bà Magia, để đem hạnh phúc vĩnh cửu đến cho toàn thể gian. Chùa chính xây theo hình chữ Công (工), gồm tiền đường, nhà cầu, thượng điện. Có thể nhận ra mặt bằng thượng điện đã có từ thời Trần (thế kỷ XIV), với một số chân tảng đá mài. Tòa tiền đường là một kiến trúc năm gian hai chái, dựng trên nền cao, được xây kiểu đầu hồi bít đốc tay ngai, với cửa bức bàn theo lối thượng song hạ bản. Hai chái lớn bưng tường, mặt trước trổ cửa sổ hình chữ Thọ (lẽ ra phải vòng tròn sắc – không) để lấy ánh sáng từ ngoài vào. Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc chủ yếu là “tứ linh quần hùng,” “tứ quý uyên ương,” hàm chứa triết lý nhân sinh sâu sắc. Kiến trúc này mới được tu sửa lại trong thời gian gần đây. Có thể thấy được rằng, ít nhất từ khoảng thời Mạc trở về trước, trọng tâm chính của chùa là nơi thượng điện hiện nay, bởi nơi đây vẫn còn nền cao hơn hẳn tiền đường và nhà cầu. Đó là kiểu thức kết cấu chung của những ngôi chùa cổ hiện còn thấy rải rác khắp châu thổ Bắc Bộ. Tất cả phần chùa gắn liền với lịch sử là một hình thức kiên cố mà vẫn linh hoạt, ẩn chứa ý nghĩa như sự tồn tại vĩnh cửu của Phật giáo cho đến ngày hôm nay.

Nên đức Phật trật vai hữu để tôn trọng Phật pháp. Các tượng này đều có ngực nở, bụng thon, mặt ít nhiều thoáng nét Ấn Độ, ngực chạm nổi những hoa thiêng. Một pho kết ấn “vô úy”, pho thứ hai kết ấn “tam muội”, pho thứ ba theo kiểu “đất chứng giám”. Ba pho tượng này lẽ ra phải được xếp cùng một hàng, nhưng vào nửa cuối thế kỷ XIX, người ta đã bổ sung pho tượng A Di Đà ngồi kết ấn “tam muội” cao gần ba mét vào không gian này, khiến cho vị trí của Tam thế bị thay đổi. Đó là biểu hiện suy lạc của nhận thức đối với Phật giáo, khiến cho một pho thuộc bộ Tam thế (pho hiện tại) bị đẩy lên phía trước.

Tiếp dưới các tượng này là bộ Hoa Nghiêm tam thánh, chính tâm là đức Thích Ca cầm bông hoa để nhắc nhở chúng sinh vào chùa thì phải “tự tính trạm viên”, có nghĩa là phải tự mình giác ngộ lấy mình (hãy vén mây mù ngu tối che đậy thân tâm, thì tự nhiên ánh sáng trí tuệ sẽ rọi tới). Như vậy, với chùa Côn Sơn bằng tượng Hoa Nghiêm, người xưa muốn dạy chúng sinh rằng, hãy đừng quên bản chất tốt đẹp của chính mình mà đến chùa là để tìm lại Phật tâm ẩn tàng ở đằng sau cái vỏ vô thường của xác thân… Hai bên của Thích Ca là tượng Văn Thù và Phổ Hiền, sản phẩm của nghệ thuật cuối thế kỷ XVII. Tuy nhiên, phần nào đài sen của hai tượng này lại có niên đại sớm hơn. Đằng trước tượng Hoa Nghiêm là hai đại đệ tử của Ngài, đó là Ca Diếp (mặt già) kết ấn “mật phùng” để giữ cho tâm thanh lòng tĩnh và Ananda (mặt trẻ) kết ấn “liên hoa” biểu hiện cho lý – trí, âm – dương, phàm và thánh cùng một thể, một cội nguồn. Đây cũng là bộ tượng khá đẹp mang nét chân dung. Ở phía trước là tượng Thích Ca sơ sinh gắn với tích Phật khi xuất thể đã bước bảy bước trên bảy bông sen để đem hạnh phúc đến cho muôn loài trên cõi đời này. Hiện nay, trên tòa thượng điện vẫn lưu giữ được một vài chân tảng đá mài chạm nổi đài sen trơn… Sự hiện diện của chúng cho thấy có khả năng nơi đây vào thời Lý đã có một ngôi chùa nhỏ, rồi tới thời Trần với sự phát triển của phái Trúc Lâm, chùa Côn Sơn mới được dựng lại thành một chốn tổ linh thiêng thu hút phật tử gần xa.

Sau Phật điện, qua khoảng sân gạch là tổ đường, kiến trúc kiểu chữ Đinh (丁), gồm tiền bái và hậu đường. Hình thức thờ ở đây phần nào khác với các ngôi chùa thông thường, bởi lấy việc thờ Tam tổ làm trọng tâm, đồng thời phối thờ những vị tổ khác ngồi ở hàng ghế dưới nhưng lại được đội mũ theo dạng tỳ lư và cả dạng ít nhiều mang tính Đạo giáo: ngoài các vị Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, thì trên ban thờ còn có tượng của Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán với khuôn mặt đầy nét chân dung, nhiều quý tướng, phục trang có mũ và áo là sản phẩm của nghệ thuật đầu thế kỷ XVIII. Có thể coi đây là một pho tượng chuẩn mực về danh nhân, gợi ý cho chúng ta tạo tác các tượng danh nhân khác.

Phía sau nhà tổ là hòn non bộ, trước đây vốn là một ao nhỏ, nước từ mạch núi Kỳ Lân tụ lại, quanh năm nước tràn đầy trong xanh, mát mẻ. Đàn rùa tụ hội sinh sống ở đây đã bao đời, bởi vậy có tên là ao rùa. Bên ao rùa là khu vườn tháp, đáng chú ý là tháp tổ Huyền Quang (Đăng Minh bảo tháp), được tạo dáng trụ, mái tạo kiểu ngói ống điểm hoa mai mãn khai.

Đến Côn Sơn là một dịp tìm về cõi thanh hư, để gần hơn với phật tâm, nghe tiếng chuông mà nhập vào miền thánh thiện.