NGHI LỄ THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI THÁI

NGHI LỄ THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI THÁI

Theo số liệu từ Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, dân tộc Thái ở nước ta có 1.550.423 người, là dân tộc có dân số đông thứ ba trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, sau dân tộc Kinh và dân tộc Tày. Họ sinh sống chủ yếu ở vùng Tây Bắc Việt Nam (Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái) và ở Thanh Hóa, Nghệ An; chia thành hai nhóm là Thái Đen và Thái Trắng.

Người Thái quan niệm đất này vốn phân chia thành hai mường, tương đương với quan niệm về hai thế giới. Đó là “thế giới của sự sống”, tiếng Thái gọi là mương côn (mường người) và thế giới hư vô, tiếng Thái gọi là mương phi (mường ma). Thế giới hư vô của người Thái có ba không gian tồn tại:

  1. Không gian của mỗi con người có phi khoăn, tương đương với “linh hồn” hay “vía”.
  2. Không gian của “cõi linh”, hiểu theo nghĩa cụ thể của mường phi, được chia thành hai phần:
    • Phần “ác” gồm các ma thiêng, quỷ dữ có thể do người chết biến thành hoặc có sẵn trong tự nhiên;
    • Phần “lành” có tổ tiên (phi đẳm, phi hươn).
  3. Không gian của cõi trời có pỉu tiên hay then.

Cũng như các dân tộc khác, người Thái cho rằng có sự sống là do linh hồn tồn tại trong thể xác. Niềm tin vào linh hồn đã dẫn đến sự ra đời của các nghi thức, nghi lễ. Điểm nổi bật trong tín ngưỡng của người Thái là tục cúng tổ tiên, không theo bất cứ tôn giáo ngoại tộc nào. Họ cho rằng, khi chết, linh hồn đầu (hồn chủ) hóa kiếp về cõi ẳn Tỉ để trở thành tổ tiên, tồn tại mãi mãi ở “cõi vĩnh hằng”.

Người Thái là tộc người từ ngàn đời đã làm nhà sàn để ở, do vậy cách thức tổ chức không gian thờ cúng tổ tiên trong nhà của họ cũng hết sức khoa học. Trong ngôi nhà sàn truyền thống, nơi thờ cúng tổ tiên đặt ở gian hoóng (buồng) bên phía quản (bên trên). Có nghĩa là, chia đôi theo chiều ngang của cây quá giang, một bên là cầu thang dẫn lên lan can đi tới cửa chính bên hồi để vào nội thất. Đầu tiên sẽ thấy ở “phía trên” có gian thờ tổ tiên như được giấu kín trong buồng có vách ngăn. Kích thước gian này thường không có quy định về chiều ngang nhưng nhất thiết phải đặt vừa mâm cúng và thường được thưng ván lửng, có chiều cao từ 1 đến 1,2m.

Theo phong tục, vợ chồng chủ nhà cũng ngủ ở gian kề chỗ sát thờ tổ tiên, tục gọi là ngủ cài hoóng (non khắt hoóng). Việc dành riêng một vị trí quan trọng trong ngôi nhà làm không gian thờ cúng tổ tiên cho thấy ý thức coi trọng tập tục, đồng thời thể hiện quan niệm nhân sinh rằng tổ tiên đã mất vẫn tồn tại ở một thế giới khác và vui vầy cùng con cháu.

Khác với nhiều dân tộc khác, quan niệm và cách lý giải về linh hồn của người Thái mang màu sắc riêng. Họ cho rằng, thể xác là con người, linh hồn là cái bóng. Do vậy, tiếng Thái có thuật ngữ “hồn bóng” (khoăn ngau). Một con người có tới 80 hồn: 30 hồn ở phía trước và 50 hồn ở phía sau (xam xíp khoăn mang ảh, xíp khoăn mang lărg). Đó là các hồn của từng bộ phận cơ thể như mắt, tai, mũi, tóc, tim, phổi, chân tay… Sau khi chết, 80 hồn vẫn quanh quẩn bên thân xác đang quàn trong nhà.

Tám mươi hồn đó được chia thành ba loại:

  • Văn tồn (hồn gốc) ngụ trên đỉnh đầu;
  • Văn pai;
  • Văn ngau phàu hẹo.

Văn pai sẽ được thầy mo dẫn lên đẳm chào ở Mường Then. Sau lễ khóc tiễn, người ta đưa thi hài ra đồng, đồng thời đưa hai loại hồn này đi để nhận mộ và biết đường về với con cháu. Riêng văn tồn được rước về ngự trên ban thờ, trở thành ma nhà hay thần giữ nhà, gọi là phi hươn, tức tổ tiên. Còn văn ngau phàu hẹo thì ở nghĩa địa để canh mồ mả cho dòng họ. Sau ba ngày, làm lễ mở cửa mả đón văn tồn về rồi lại làm lễ cho ngự tại ban thờ. Nếu ngày giờ chưa đẹp thì dùng mía để cúng đón văn tồnvăn tồn sẽ tạm ngự ở chiếc áo treo trên cột trong gian hoóng, chờ đến ngày tốt sẽ nhập ban thờ thành phi hươn.

Người Thái thờ cúng phi hươn chính là thờ cúng tổ tiên. Gian thờ này tiếng Thái gọi là hoóng. Khi dựng nhà, bao giờ người Thái cũng dựng một cây cột đầu tiên gọi là xau hoóng. Khi cất xong nhà thì gian hoóng đặt một chạn đựng các đồ vật cúng bái tiên tổ và thực hành cúng bái tại gian này. Vì vậy, cây cột chính dựng trước tiên tại đây gọi là xau phi hươn.

Ma tổ tiên ngự tại gian này nên người Thái kiêng không đem thịt sống, không đem cành lá xanh qua. Họ quan niệm rằng, nếu đem thịt sống qua sẽ đánh thức ma, ma sẽ vòi vĩnh, gây đau ốm; cành lá xanh tượng trưng cho rừng hoang, nếu đem qua thì ma tưởng là có quỷ dữ đến, sẽ thức dậy hỏi chủ nhà và dò xét, gây đau ốm cho người trong gia đình. Họ cho rằng, đêm đến ma nhà có thể đi rong chơi, khi về có thể rủ ma rừng về lẫn lộn để làm hại người. Do vậy dân gian Thái có câu: “phi hươn chuốn phi pá” (ma nhà rủ ma rừng)

Một trong những Tết quan trọng trong năm của người Thái là Tết cơm mới (khau mờ). Thời gian ăn Tết vào khoảng tháng Mười âm lịch, tức chừng tháng Sáu lịch Thái. Đây là thời điểm nông nhàn vì mùa màng đã thu hoạch xong. Thời gian ăn Tết cụ thể tùy thuộc từng gia đình. Trước khi ăn Tết, đồng bào đã chuẩn bị sẵn nhiều lương thực, thực phẩm.

Để tỏ lòng biết ơn ông bà, cha mẹ, tổ tiên đã phù hộ, độ trì cho mình một năm làm ăn phát đạt, lúa ngô tốt tươi, vật nuôi chóng lớn, khi bông lúa nếp còn đang đọng sữa, đồng bào gặt một ít mang về luộc, phơi cho khô rồi cất lên sàn gác – nơi người không được đụng chạm đến. Đến ngày Tết cơm mới, đem ra rang, giã làm cốm hoặc đồ xôi để dâng cúng tổ tiên. Một món quan trọng nữa để cúng là cá, tiếng Thái gọi là “lỉ pá”, được chế biến nhiều kiểu: nướng, luộc, rán…

Ngoài ra, đồng bào còn làm các loại bánh bằng gạo nếp như bánh chưng, bánh gù, bánh sừng dê… Khi mâm cỗ cúng sắp xong, được bưng lên đặt ở gian cúng tổ tiên. Chủ nhà có thể tự cúng hoặc mời thầy mo đến cúng hộ. Nội dung lời khấn đại ý mời tổ tiên về hưởng hương hoa, chứng giám cho thành quả lao động sản xuất và cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ để năm sau thu hoạch gấp năm, gấp mười năm nay. Năm sau nếu con cháu ăn nên làm ra thì sẽ tiếp tục làm cỗ to hơn để dâng tổ tiên.

Tết Nguyên đán cũng là Tết cổ truyền của người Thái. Vào ngày cuối năm âm lịch, các gia đình tổ chức lễ cúng đuổi tà với ý nghĩa: “Năm hết Tết đến, ma nhà nào về với con với cháu nhà đó. Ai không có con cháu thì ăn vài miếng rồi đi, chớ về quấy phá…”. Sau đó, cúng khấn mời ông bà, cha mẹ về ăn Tết với con cháu.

Đại ý lời khấn: “Năm hết Tết đến, ông bà tổ tiên chớ đi lang thang, kẻo người ta rủa. Nhà của ông bà, cha mẹ, tổ tiên ở đây. Con cháu của tổ tiên, của ông bà, cha mẹ ở đây. Đi lang thang bị người đuổi đánh, nhục cho con cháu lắm. Mời tổ tiên về để phù hộ, độ trì cho con cháu sang năm được mạnh khỏe, ăn nên làm ra…”.

Vào ngày đầu tiên của năm mới, mọi người thức dậy sớm, chuẩn bị lễ vật cúng tổ tiên gồm: rượu, gà, cá, cơm, xôi… chay tịnh, thanh khiết. Chủ nhà có thể tự cúng hoặc mời thầy mo đến cúng giúp. Gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế có thể chỉ khấn cầu ma nhà, tức tiên tổ (phi hươn). Gia đình có điều kiện kinh tế có thể cúng tất cả các loại ma (thần): ma nhà (phi hươn), ma bản (phi bản), ma suối (phi huổi), ma rừng (phi pá), ma trời (hẻ)… Lễ cúng có thể kéo dài cả buổi.

Sau khi cúng xong, cỗ bàn được dọn ra, mọi người trong gia đình, bà con lối xóm cùng chúc nhau sức khỏe, con đàn cháu đống, thu hái đầy bồ, vật nuôi đông đúc.

Với người Thái Đen, lễ cúng tổ tiên được gọi là “cúng nhà” (xên hươn), được xem như ngày Tết. Đây là dịp vui của một nóc nhà nhưng thu hút sự tham gia của tất cả bà con trong bản và có khi là cả một vùng gồm vài ba bản trở lên. Vật hiến tế là lợn to. Cúng xong, đặt bàn cỗ mừng. Người khấn lễ là thầy mo. Ngày cúng là một ngày vui, đồng bào uống rượu, hát đối đáp, đánh trống chiêng, múa xòe suốt ngày đêm. Ngày nay, hai sự kiện “cúng nhà” và Tết Nguyên đán thường được đồng bào kết hợp làm một.

Một lòng thành kính, nhớ về tổ tiên là hình thức tín ngưỡng sơ khai, bắt rễ vào phong tục tập quán của nhiều dân tộc và ăn sâu vào tiềm thức mỗi người. Tín ngưỡng đó bắt nguồn từ việc tưởng nhớ những người đã có công sinh thành, dưỡng dục mình theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Việc kế thừa, gìn giữ, phát huy tín ngưỡng tốt đẹp đó của thế hệ mai sau là minh chứng hùng hồn về tình cảm, tình yêu thương và lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên trong việc trân trọng các giá trị truyền thống từ ngàn đời.