CHÙA QUÁN SỨ
Chùa Quán Sứ trước đây thuộc thôn An Tập, huyện Thọ Xương, thành Thăng Long.
Thời Lê, thôn An Tập thuộc tổng Nội, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên. Hiện nay, chùa tọa lạc tại số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Khởi dựng từ thời Hậu Lê, thế kỷ XV, chùa ở cạnh nhà Quán Sứ để tiện cho các sứ thần nước Lào, Chiêm Thành qua tụng kinh, lễ Phật khi đến giao thiệp với triều đình ở Kinh đô Thăng Long. Tấm bia dựng năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) do Lê Duy Trung soạn còn lưu giữ tại chùa có ghi: “Tiền đường thờ Phật, hậu đường thờ Lý Quốc Sư. Đầu đời Gia Long, Thăng Long đổi ra Bắc Thành chia đặt các đồn quân, chùa ở giáp đồn Hậu Quân”.
Theo chú thích bản đồ Hồng Đức thành Thăng Long thời Hậu Lê (in kèm trong sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, Nxb. Hà Nội, 1986) cho biết, chùa Quán Sứ ở vùng đất cửa Nam Kinh thành, là một trong bốn di tích nổi tiếng ở cửa Nam Kinh thành, đó là: Văn Miếu Quốc Tử Giám, Khâm Thiên Giám, đền Nam Giao, chùa Quán Sứ.
Năm 1934, Phật giáo Bắc Kỳ đóng Hội quán tại chùa. Những năm 1940 – 1942, chùa Quán Sứ là trụ sở Báo Đuốc Tuệ, đại diện tiếng nói của Hội Phật giáo Bắc Kỳ.
Năm 1942, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam ra đời, lấy chùa Quán Sứ làm trụ sở Trung ương Hội.
Từ khi khởi dựng đến nay, chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa. Tấm bia niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 (1822) có ghi: “… Tu sửa chùa cho quân nhân cầu đảo, xây hành lang tô tượng, đúc chuông…”. Ở thời Tự Đức đã có ba lần sửa và tô tượng Phật vào các năm 1855, 1876, 1881. Năm 1942, chùa được trùng tu lớn để làm trụ sở Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam. Năm 1992, nhà thờ tổ của chùa được trùng tu.
Chùa Quán Sứ là di tích tôn giáo thờ Phật và thờ Lý Quốc Sư. Bài ký trên bia dựng năm Tự Đức thứ 8 (1855) có ghi: “… Thiền sư rất tinh thông pháp thuật, thuật quán đến khôn lường, có khi cưỡi mây đến Thiên Thai cũng không biết được, lúc thì đỗ ở chùa Hà Trạch ngâm vịnh, chọn được đất long xà (rồng, rắn) có thể ở ngay ngoài đồng vui chơi suốt ngày, có khi lại trèo thẳng lên núi cao, hét một tiếng làm ghê rợn tất thảy, xương cốt nhẹ tênh bay du dương trên trời. Vua Lý Thần Tông có công đức với dân nên được Thiền sư chữa cho khỏi bệnh. Thiền sư thần sắc sáng ngời, dáng cao, có ân huệ với bốn vị vua nhà Lý suốt 97 năm, người có công với nước tức có công với dân.
Vào năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 được tôn làm Quốc sư, là một người tài ba”.
Chùa Quán Sứ được xây dựng trên một khu đất cao, rộng thoáng, chùa quay hướng tây nhìn ra phố Quán Sứ. Các công trình kiến trúc của chùa gồm: cổng tam quan, gác chuông, nhà tiền đường, thượng điện, hai dãy nhà giải vũ, nhà thờ tổ.
Cổng tam quan có gác chuông, xây bằng gạch kiểu chồng diêm ba tầng, mái lợp ngói ống. Chùa chính xây trên nền cao hơn mặt sân 1,9m, từ sân lên nền chùa xây 12 bậc bó vỉa bằng xi măng. Nhà tiền đường bảy gian, xây kiểu nhà có mái chồng diêm, hai tầng mái, lợp ngói ống.
Nhà thượng điện bốn gian, xây nối với gian giữa tiền đường chạy dọc về phía sau, mái lợp ngói ống. Hai hồi gian cuối của thượng điện nối với hai gian hai bên: một bên thờ Lý Quốc Sư, một bên thờ Già Lam Chân Tể. Nhà thờ Tổ ở phía sau thượng điện, xây hai tầng, mái lợp ngói Tây. Tầng trên là nơi thờ Tổ, tầng dưới là giảng đường của Học viện Phật giáo Việt Nam. Hai dãy nhà giải vũ xây chạy dọc hai bên hồi, giữa là sân chùa; mỗi dãy chín gian, nhà hai tầng, mái lợp ngói ta. Dãy nhà bên trái là Văn phòng Hội đồng Chứng minh và Văn phòng Giáo hội, bên phải là Văn phòng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và Văn phòng Hội đồng Trị sự Trung ương.
Tại nhà tiền đường, bên trái là ban thờ Quan Âm Chuẩn Đề, bên phải là ban thờ Đức Địa Tạng. Tòa Phật điện gồm các lớp tượng:
- Lớp thứ nhất: Nơi cao nhất của tòa Phật điện là ba pho tượng Tam Thế Thường Trụ Diệu Pháp Thân (quá khứ, hiện tại và vị lai).
- Lớp thứ hai: Tượng A Di Đà ở thế ngồi thiền định trên tòa sen, hai bên là tượng Bồ Tát.
- Lớp thứ ba: Giữa là hai tượng Thích Ca niêm hoa, hai bên là tượng La Hán.
- Lớp thứ tư: Tòa Cửu Long và Phật Thích Ca sơ sinh.
Chùa Quán Sứ còn lưu giữ được bộ sưu tập di vật gồm: 8 tấm bia hậu, trong đó một bia đề “Quán Sứ tự công đức bi ký” niên hiệu Tự Đức thứ 8 (1855), ghi việc tu sửa chùa và sự tích Thiền sư Minh Không; 2 tấm bia niên hiệu Tự Đức thứ 29 (1876); 4 tấm bia niên hiệu Tự Đức thứ 34 (1881) ghi việc tu sửa chùa, tạc tượng, đúc chuông; 5 quả chuông đồng có kích thước lớn nhỏ khác nhau, gồm: 1 chuông niên hiệu Gia Long thứ 11 (1812), 1 chuông niên hiệu Gia Long thứ 16 (1817), 1 chuông “Quán Sứ tự chung” niên hiệu Gia Long; 27 pho tượng tròn được tạo tác công phu, tinh xảo, phủ thiếp vàng lộng lẫy, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII, XIX; 13 đôi câu đối sơn son thếp vàng, có nội dung ca ngợi cảnh đẹp của chùa và sự huyền diệu của Phật pháp như:
Thọ quang vô lượng trang nghiêm, vạn đức hồng danh chân giáo thể;
Phúc tuệ thậm thâm cứu cánh, nhất tâm bất loạn đại từ tôn.
Tạm dịch:
Thọ quang rất mực trang nghiêm, muôn đức lẫy lừng là bậc giáo chủ chân chính;
Phúc tuệ sâu sắc là đích cuối, một lòng không loạn là đấng đại từ.
Ngoài ra, chùa còn có hệ thống di vật bằng gỗ như: 4 tấm hoành phi, 6 bức cửa võng chạm hình tứ quý, tứ linh; 8 nghi môn chạm thủng hình tứ quý; 2 bức phù điêu chạm hình rồng chầu; 6 bức cuốn thư chạm hình tứ linh; và nhiều đồ thờ tự khác như: hương án, sập thờ, bát hương sứ men lam, cây đèn, mâm bồng…
Trong hệ thống di tích thành cổ hiện nay, chùa Quán Sứ là một trong những di tích được quy hoạch, bảo quản khá tốt. Chùa là nơi đặt trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Phật học Việt Nam, nơi đào tạo nhiều tầng lớp các chư vị thượng tọa, tăng ni có tài, có đức, có nhiều đóng góp cho đạo, và là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng. Chùa Quán Sứ còn là một điểm tham quan hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước, là di tích có vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu, tìm hiểu quy hoạch Kinh thành Thăng Long qua các triều đại.