Ý nghĩa tục cúng giỗ trong văn hóa Việt Nam

GIỖ, TẾT, TẾ LỄ

Bái vật là gì?

Quan niệm xưa – không riêng nước ta mà ở nhiều dân tộc trên thế giới – cho rằng mọi vật do tạo hóa sinh ra đều có linh hồn; mỗi loại vật, kể cả khoáng vật, thực vật cũng có cuộc sống riêng. Lúc đó người ta chưa phân biệt thế giới hữu sinh và vô sinh. Con người chưa thể lý giải nổi những yếu tố thiên nhiên xung quanh chi phối mình như thế nào, nên các vật như hòn đá, thân cây, con vật có quan hệ mật thiết với họ đều được tôn thờ như thần linh.

Trong ngôn ngữ nhiều nước ở châu Âu (như tiếng Pháp), mọi vật trong tạo hóa – hữu hình hay vô hình, cụ thể hay trừu tượng – đều mang khái niệm âm – dương, đều có giống đực, giống cái. Đó là chứng cứ xuất xứ của tục bái vật, hiện còn tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta.

Ở nước ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân dân thờ cúng, coi đó là một biểu tượng, nơi ẩn hiện của một vị thiên thần hoặc nhân thần nào đó. Người ta “sợ thần, sợ cả cây đa” mà cúng cây đa – đó không thuộc vào tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quỳ trước tượng Phật, tượng Chúa; lễ Thần, quỳ trước long ngai của Thần – những thần đó có thần hiện rõ ràng, chứ không phải là lạy khúc gỗ hay hòn đá như tục bái vật.

Xa xưa, ở nước ta có tục bái vật không? Câu trả lời chưa được làm rõ. Ngày nay chỉ còn lại vài dấu vết trong phong tục. Ví dụ: bình vôi là “bà chúa trong nhà” – chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi con dâu mới về nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo – nghĩa là tạm lánh nhưng vẫn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ làm vỡ bình vôi thì đem mảnh bình vôi còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình, chùa – không vứt ở chỗ ô uế.

Gỗ chò là loại gỗ quý, gỗ thiêng – chỉ được dùng để xây dựng đình, chùa, nhà thờ. Nhân dân không ai được dùng gỗ chò làm nhà riêng. Ngày xưa, trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy.

Còn như tục kiêng vứt chân hương vào thùng rác hoặc chỗ dơ bẩn, kiêng dùng giấy có chữ Nho vào việc uế tạp – đó là vì ý thức tôn sùng thần linh, cụ thể là Đức Khổng Tử – chứ không phải sợ hồn của chân hương hay tờ giấy. Đó không phải là tục bái vật.

Lễ cúng giỗ vào ngày nào?

Lễ cúng giỗ nên diễn ra đúng ngày mất hay trước ngày mất một ngày? Có người cho rằng phải cúng vào “ngày đang còn sống” (tức là trước ngày mất), có người lại cho rằng “trẻ dôi ra, già rút lại”, nên người chết trẻ thì cúng đúng ngày mất, còn người già thì cúng trước một ngày.

Theo âm Hán, ngày giỗ là húy nhật hay kỵ nhật, tức là ngày kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ – cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.

Ngày trước, lễ giỗ gọi là lễ chính kỵ; chiều hôm trước có lễ tiên thường (nghĩa là “nếm trước”) – con cháu sắm sửa một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà khá giả mời thông gia, bà con làng xóm đến ăn giỗ cả hai lễ: tiên thường và chính kỵ.

Dần dần, vì khách đông, phải chia ra hai lượt; lại có những nhà mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau: người đi lễ tiên thường, người đi lễ chính kỵ. Ở nông thôn, tùy theo thời vụ, muốn “vừa được buổi cày, vừa hay bữa giỗ”, nên buổi chiều đi làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ sẽ tiện hơn – vì vậy lễ tiên thường đôi khi lại đông hơn lễ chính kỵ.

Dần dần, do bận việc hoặc kinh tế eo hẹp, hoặc thiếu người phục dịch, người ta giản lược, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một vài nhà làm trước, người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thành tục lệ địa phương.

Lễ tiên thường (chiều hôm trước) trước đây chỉ cúng vào buổi chiều, vì buổi sáng còn phải mua sắm, nấu nướng, và ra khấn ở mộ để yết cáo với Thổ thần, Long Mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ giỗ.

Vậy nên, cúng ngày sống hay cúng ngày mất – lễ tiên thường hay lễ chính kỵ – lễ nào quan trọng hơn, thực chất chỉ là cách biện hộ cho phong tục của từng địa phương.

Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước:
– Trước ngày mất (lễ tiên thường) thì cúng chiều.
– Đúng ngày mất (lễ chính kỵ) thì cúng buổi sáng, kể cả trường hợp chiều hôm đó mới mất.

Mấy đời tông giỗ?

Theo Gia lễ Ngũ đại mai thần chủ, hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của đời cao tổ, nhấc lần lượt thần chủ lên bậc trên, rồi đưa thần chủ của người mới mất vào vị trí thấp nhất.

Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình; rồi tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới).

Như vậy chỉ có 4 đời trên là làm giỗ (cao, tằng, tổ, phụ) – tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ.

Từ “cao” trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ riêng nữa mà nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của Thủy tổ.

Trường hợp chết yểu có cúng giỗ không?
Có hai trường hợp:

  1. Người đã đến tuổi trưởng thành, nhưng khi mất chưa có vợ hoặc chỉ có con gái, chưa có con trai – hoặc có con trai nhưng sau đó con trai mất, thành ra phạp tự (không có người nối dõi). Những người này vẫn có cúng giỗ. Người lo việc giỗ là cháu trai (con trai của anh/em ruột) được lập làm thừa tự và được hưởng một phần hoặc toàn bộ gia tài. Sau khi người thừa tự mất, thì con cháu của người thừa tự tiếp tục kế thừa.
  2. Người chưa đến tuổi trưởng thành (dưới 16 hoặc 18 tuổi, tùy địa phương) – sau khi hết lễ tang sẽ yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ theo tiên tổ (gọi chung trong các bài văn cúng là “phụ vị thương vong tòng tự” – không đặt linh vị riêng). Những người này không có lễ giỗ riêng. Ai có cúng chỉ là ngoại lệ. Có gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mâm, coi như người thân còn sống – điều này không có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng vọng với người đã khuất

Cúng giỗ

Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tùy gia cảnh và tùy vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Đây cũng là dịp thăm người thân trong gia đình, trong chi họ, dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó, người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là “trước cúng sau ăn”, để cho cuộc họp mặt thêm đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Chi phí cũng không dồn lên đầu một ai, vì ngoài phần do hương hỏa mà có, mỗi người đều đóng góp bằng tiền mặt hoặc hiện vật, nên mới có từ “góp giỗ”. Với ý nghĩa trên – “uống nước nhớ nguồn” – việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục, nếu như người ta loại bỏ được những hủ tục có tính chất mê tín dị đoan, nếu như không bị lợi dụng làm cơ hội cho bọn hãnh tiến khoe của bằng mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị, cho những ông tham nhũng dựa vào chức quyền nhận lễ giỗ hậu hĩnh, một thứ đút lót trá hình.

Chính vì thế, theo phong tục đó mà Nhà nước ta đã giữ gìn việc tổ chức trang nghiêm ngày giỗ của các vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước như ngày Giỗ Tổ Hùng Vương… Vì vậy, việc giữ gìn tục lệ đó theo ý nghĩa trong sáng của nó không có gì phải bàn.

Ngày Tết có những phong tục gì?

Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tết Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên, Thanh minh, Đoan ngọ, Trung thu… Ngày Tết được đề cập ở đây là nói tắt lễ tiết Nguyên đán (ngày đầu năm).
Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc Tết, du xuân, mừng thọ… Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh thiếu niên cũng mua cho được cành hoa, bánh pháo, nhà nghèo cũng có bánh chưng, chai rượu.
Tông cựu nghênh tân: nghĩa là cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế, ấm, chén và chuẩn bị mọi thứ thức ăn, vật dụng.
Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, không cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác, viết vẽ bừa bãi; cha mẹ, anh chị cũng không quở mắng, phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dù lạ hay quen.
Đối với bà con hàng xóm dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xí xoá hết. Dù có thực lòng hay không nhưng người nào cũng có vẻ ôn tồn hoà nhã, chuyện cũ cho qua không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dù mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc Tết, mừng tuổi: Mọi người ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khoẻ, tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, càng sớm càng tốt, nhưng nhiều chủ nhà chủ động tự mình đi hái lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người “nhẹ vía” mà mình thích đến xông nhà, bạn nào vinh dự được người khác mời đến xông nhà thì nên chú ý, chớ có sai hẹn sẽ xui quay cả năm đối với gia đình chủ nhà và cả đối với bạn. Ở thành thị trước đây, sáng mồng một, có một số người nghèo gánh một gánh nước đến nhà các gia đình giàu có lân cận và chúc họ “Lộc phước dồi dào”. Những người này được thưởng tiền rất hậu. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay lại đổ tại mình “nặng vía”. Vì vậy, đáng lẽ sáng mồng Một đông vui lại hoá ít khách, trừ những nhà đã tự xông nhà, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi không tính.
Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ cũng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca, có kệ nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc. Với những người trong năm cũ gặp rủi ro tai họa thì động viên nhau “của đi thay người”, “tai qua nạn khỏi”, nghĩa là ngay trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngày đầu năm, người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa.
Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đậm đà ý vị; mời nhau hoặc điếu thuốc, miếng trầu, hoặc chén trà, ly rượu. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó thì chủ nhà mới vui lòng, năm mới từ chối sợ bị xui cả năm.
Quà Tết, lễ Tết: Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cầu danh, cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tỏ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò Tết thầy giáo, bệnh nhân Tết thầy thuốc, con rể Tết bố mẹ vợ… thì quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình “Lời chào cao hơn mâm cỗ”.
Lễ mừng thọ: Ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở nước ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thất tuần, bát tuần, cửu tuần… tính theo tuổi mụ. Ngày Tết, ngày xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.
Câu chuyện khai bút: Khai bút là một tục hay, tiếc rằng ngày nay ít ai chú ý. Khai bút là nắn nót, thận trọng viết những dòng chữ đầu năm. Giao thừa xong, khai bút chữ tốt văn hay tức là báo hiệu sang năm học hành tấn tới, thi cử gặp may. Làng xã có nhiều bài khai bút hay, đọc trong buổi bình văn khai hạ là làng có văn phong rạng rỡ, địa linh nhân kiệt.
Cũng vào dịp đầu xuân, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở cửa hàng lấy ngày. Sĩ, nông, công, thương – “tứ dân bách nghệ” của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hanh thông, làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hói hè đình đám, vui chơi quá đà. Sau ngày mồng Một, dù có mải vui Tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày “khai nghề”, “làm lấy ngày”. Nếu như mồng Một là ngày tốt thì chiều mồng Một đã bắt đầu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm, dụng cụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Với người buôn bán ai cũng muốn chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dù người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân.
Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nền nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc, uống rượu nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 28, 29 tháng chạp; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép vui chơi, có cả trẻ con, người lớn, những nhà hàng xóm, những gia đình thân cận cùng vui. Tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, to tôm… ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bỏ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bỏ to tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.
Tóm lại, ngày Tết là ngày tiêu biểu cho truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Cần tiếp tục gìn giữ và phát huy thuần phong mỹ tục đó, từ gia đình ra xã hội, ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hoà, kính già yêu trẻ… đất nước, quê hương sẽ tươi đẹp, giàu mạnh.

Tại sao có Tết Hàn thực (mồng 3 tháng 3)?

Theo phong tục cổ truyền, ngày mồng 3 tháng 3, tức Tết Hàn thực, ta làm bánh trôi, bánh chay. Tết này có xuất xứ từ Trung Quốc, cúng giỗ ông Giới Tử Thôi, một hiền sĩ có công phò vua Tấn Văn Công, thời Xuân Thu, bị chết cháy ở núi Điền Sơn.
Nhân dân ta theo tục đó nhưng chỉ cúng gia tiên nhà mình.

Tại sao có Tết Đoan ngọ (mồng 5 tháng 5)?

Ở nước ta, Tết Đoan ngọ (Tết Đoan dương) được coi trọng, xếp vào hàng thứ hai sau Tết Nguyên đán. Vì vậy các cụ thường nói “Mồng 5 ngày Tết”, học trò tết thầy, con rể tết bố mẹ vợ… quanh năm cũng chỉ tập trung vào hai lễ Tết đó.
Tết này vốn có xuất xứ là ngày giỗ của ông Khuất Nguyên, người Xuân Thu, dưới thời cai trị của Sở Hoài Vương. Khuất Nguyên vốn là trung thần của vua Sở, vì can ngăn vua không được, bực mình ông ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn. Hôm ấy là ngày 5 tháng 5. Nhân dân tiếc người trung nghĩa, hằng năm đến ngày ấy làm bánh ngọt, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài rồi bơi thuyền ra giữa dòng sông, ném bánh xuống để cúng ông. Quấn chỉ ngũ sắc là có ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất.
Tết Đoan ngọ còn nhiều tục lưu truyền đến nay: Sáng sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng cách uống rượu (hoà ít tam thần đơn) hoặc ăn rượu nếp. Trẻ em giết sâu bọ ngay khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay, móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi bấm lỗ tai cũng chọn ngày này. Vì là Đoan ngọ nên lễ cúng gia tiên phải cúng vào giờ ngọ (buổi trưa). Tục hái thuốc mồng năm cũng bắt đầu từ giờ Ngọ, đó là giờ có dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể, tuy vậy, nhân dân ta quen dùng thảo mộc chữa các chứng bệnh, biết phân biệt loại có độc. Ngược lại, các cây cỏ chữa bệnh thông thường có tác dụng trừ phong ích khí thì hái nhiều hơn như ích mẫu, ngải cứu, sả, tía tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi.