Chuyện đặt tên, xin áo, vào sổ họ: Góc nhìn dân gian về trẻ sơ sinh

Tại sao có tục xin quần áo cũ cho trẻ sơ sinh?
Cách trả lời đơn giản nhất là xin để lấy “khước” (lấy may). Người mẹ từ khi mới thụ thai đã chú ý xem trong bà con, họ hàng, làng xóm nhà ai có con cái bụ bẫm, hay ăn chóng lớn, ít khóc ít quấy, ao ước sắp tới con mình đẻ ra cũng được như thế thì xin một cái áo, hay cái quần, cái tã cũ của đứa bé về sửa sang lại để dùng cho con mình.
Xuất xứ là do một vài người làm, rồi bắt chước nhau, dần dần lan truyền ra thành phong tục. Nguyên ngày xưa, ta chưa có những thứ vải mỏng mịn bán rộng rãi trong dân gian, thị trường toàn những vải thô, bố lại nhuộm nâu, thô cứng, trẻ sơ sinh da còn non mặc dễ bị xây xát, hài nhi càng mặc đồ mới càng đau yếu. Nhà nghèo không sẵn tiền mua đã đành, nhà giàu cũng xin áo cũ cho trẻ sơ sinh là vì lẽ ấy.
Trẻ thì chóng lớn, quần áo thì lâu mới rách, chỉ vài tháng sau đã quá cỡ, người ta không nỡ phá đi dùng vào việc khác nên cất giữ lại. Vì vậy, người cho áo cũng cảm thấy vinh dự được người khác quý mến con mình và coi đứa bé sắp ra đời cũng có phần hơi hướng của mình.

“Con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng” – tại sao?
Con so là con đầu lòng, con rạ là những đứa con sinh sau. Nếu nuôi được cả thì con so là trưởng, con rạ là thứ. Trước đây, phong tục “Con so về nhà mạ” phổ biến ở Bình Trị Thiên và một số địa phương ngoài Bắc; còn ở Nghệ An, Hà Tĩnh thì, trừ trường hợp ở rể, nói chung con gái không được sinh đẻ ở nhà cha mẹ mình.
Con gái mới sinh lần đầu tiên, trẻ người non dạ, chưa biết đi đứng, ăn uống, tắm giặt, kiêng khem ra sao. Hơn nữa, trong người yếu khỏe không rõ, muốn nhờ vả mẹ chồng hoặc chị em nhà chồng cũng ngần ngại, khó nói hơn với mẹ đẻ và em út mình. Còn những lần sinh sau đã có kinh nghiệm, có thể tự mình giải quyết được nhiều việc.
“Con so về nhà mạ” là một phong tục hay nhưng muốn giải quyết được êm đẹp cũng phải có thu xếp: gần ngày ở cữ, mẹ chồng hoặc chàng rể sang quê ngoại thưa chuyện trước. Nếu có khó khăn về kinh tế hoặc đường sá xa xôi cách trở thì thảo luận với nhau về trách nhiệm cho thỏa đáng. Sau khi mẹ tròn con vuông, cháu cứng cáp, chàng rể sắm một số lễ vật, nhằm ngày tốt sang tạ ơn gia tiên bên ngoại và ông bà ngoại để xin đón vợ con về. Ông bà ngoại còn cẩn thận đánh dấu vôi hoặc nhọ nồi ở trán cho cháu và dùng các thứ bùa phép khác để tà ma ác quỷ không dám bén mảng đến quấy rối cháu dọc đường.
Ở Nghệ An, Hà Tĩnh lại có phong tục ngược lại: cho là “sinh dữ tử lành”, ngoài con dâu ra, không ai được quyên sinh trong nhà. Con gái về nhà mạ, nếu nhỡ đến kỳ động thai, trở dạ, không kịp trở về nhà chồng, sợ sinh nở dọc đường thì bố mẹ phải dựng tạm chiếc lều ở góc vườn, hoặc nếu không kịp, thì ra chuồng trâu mà đẻ.
Trường hợp đã mồ côi mẹ, về nhà mạ thiếu người chăm nom thì con so cũng về nhà chồng.

Tại sao khi mới sinh ra chưa đặt tên chính?

Theo phong tục, một người từ khi sinh ra đến khi chết mang rất nhiều tên gọi. Khi mới lọt lòng thì gọi là thằng Cu, thằng Cò, con Hĩm, con Cún… (thường đặt tên xấu để dễ nuôi); đến khi lớn lên thì gọi là anh Hai, anh Ba, chị Bẩy…; khi đã có gia đình thì gọi là anh Nhiêu, anh Đồ, chị Xã… Khi có con thì gọi theo tên con, có cháu đích tôn thì gọi theo tên cháu. Đến khi chết thì đặt tên hèm gọi là “hiệu” để cúng. Người có học thì tự đặt tên tự; người có chức tước thì có thêm tên thụy. Những người có học vị cao, danh tiếng thì được tôn xưng theo họ hay địa phương, như: Cụ Án Mai, Cụ Tam Nguyên Yên Đổ, Ông Trạng Trình, Ông Tú Vị Xuyên, Quan Thám Nam Sơn… Đó là phong tục ảnh hưởng từ Trung Quốc.

Trong đời mỗi người có nhiều tên gọi, nhưng chỉ có tên húy là tên chính thức, được ghi vào sổ họ, sổ làng, dùng khi đi học.

Tại sao khi mới sinh ra chưa đặt tên húy?

Ngày nay, trẻ sơ sinh được làm giấy chứng sinh ngay khi ra đời, sau đó trong vòng 60 ngày phải làm giấy khai sinh. Quản lý hộ tịch chặt chẽ. Trước đây, mỗi làng xã cũng có hương hộ lo sổ sách sinh tử, giá thú, nhưng không quản lý chặt chẽ. Nhà nước chỉ quan tâm đến sổ đinh (từ 18 tuổi), sổ điền để thu thuế, bắt lính, bắt phu. Vì vậy, vào sổ làng càng muộn càng tốt, để tránh sớm phải đóng thuế thân, đi phu, tạp dịch.

Trong xã hội cũ, tình trạng “hữu sinh vô dưỡng” khá phổ biến, ít gia đình sinh năm đẻ bảy mà được vuông tròn. Phải qua các tuần cữ mới tạm yên tâm, khi đó mới đặt tên húy.

Lễ yết cáo tổ tiên, đặt tên vào sổ họ như thế nào?

Mỗi năm, các họ tổ chức lễ tế tổ một lần. Dịp này, các gia đình có con cháu mới sinh sắm sửa cơi trầu, chai rượu, hương hoa lễ vật đến nhà thờ họ yết cáo tiên tổ và xin vào sổ họ. Lúc đó, trẻ mới có tên húy chính thức, được họ hàng công nhận.

Khi vào sổ họ phải đối chiếu gia phả để xem có trùng tên húy của tổ tiên, ông bà, chú bác hay không (kể cả bên ngoại). Nếu phạm húy thì phải đổi tên. Cũng cần tránh trùng tên các vị thành hoàng, thánh mẫu, linh thần ở địa phương. Ở nông thôn, những người có uy tín trong làng hoặc họ thường được nhờ đặt tên cho trẻ, và gia đình luôn ghi nhớ ơn ấy.

Tuy nhiên, ngày nay việc đặt tên chính ngay sau sinh là điều hợp lý và hợp pháp.

Tại sao tuổi trong khai sinh và văn bằng không đúng với tuổi thật?

Điều này gây khá nhiều rắc rối cho việc nghiên cứu sử học, soạn gia phả. Có trường hợp anh em ruột nhưng em lại khai lớn tuổi hơn anh. Chỉ có lá số tử vi là chính xác nhất (đến từng giờ), nhưng ít người còn giữ. Cha mẹ thường chỉ nhớ con mình sinh năm nào, cầm tinh con gì để tính tuổi mụ.

ba lý do khai bớt tuổi:

  • Để chậm phải đóng thuế thân, đi phu, đi lính.
  • Dưới thời Pháp thuộc, để tránh quá tuổi không được đi học, không được thi.
  • Do vào sổ họ chậm (gần một năm), vào sổ làng, phe, giáp có thể chậm 5-6 năm.

Ba lý do nâng tuổi (ít phổ biến hơn):

  • Để sớm đủ tuổi lấy vợ (“nữ thập tam, nam thập lục”). Nhiều gia đình muốn cưới dâu sớm để có người làm, có cháu nối dõi.
  • Dưới thời Pháp, công sở không tuyển người dưới 18 tuổi nên phải khai tăng tuổi.
  • Một số nơi có lệ cho thêm tuổi để nhanh được mừng thọ.

Kinh nghiệm thực hành lễ vào sổ họ:

  1. Yết cáo tổ tiên:
    Sau khi đối chiếu gia phả để tránh phạm húy, mới đặt tên húy, yết cáo tổ tiên và xin vào sổ họ. Ngày nay, do phải làm giấy khai sinh sớm, nếu chưa kịp về quê đối chiếu thì có thể đặt tạm, sau đổi lại nếu cần. Lễ yết cáo đơn giản: nén hương, cơi trầu, chén rượu, thường kết hợp lễ tế tổ đầu năm để yết cáo chung.
  2. Vào sổ họ:
    Ghi theo năm sinh, ai sinh trước ghi trước. Nếu họ mới khôi phục lại, cần thống kê theo từng hộ gia đình, rồi bổ sung tiếp với trẻ sơ sinh.

Mẫu sổ họ:

  • Họ tên (tên húy, tên thường gọi)
  • Con ông bà nào
  • Thuộc đời thứ mấy, chi thứ mấy
  • Con trưởng hay thứ mấy
  • Ngày tháng năm sinh, ngày vào sổ họ
  1. Con gái vào sổ họ:
    Ngày xưa, nhiều họ không ghi con gái vào sổ họ vì quan niệm “nữ nhân ngoại tộc”. Nhưng trước Cách mạng Tháng Tám 1945, đã có họ cho con gái đầy đủ quyền lợi. Ngày nay, cần quan tâm đến vai trò của phụ nữ, nàng dâu, vì họ là người mẹ, người vợ, người chị… góp phần gìn giữ và phát triển dòng họ. Phong tục cần phù hợp với tư duy hiện đại.

Con nuôi?
Có ba loại con nuôi: con nuôi chính thức, con nuôi danh nghĩa và con nuôi giả vờ.

  1. Con nuôi chính thức
  • Con lập tự:
    Gia đình không có con trai, nuôi con anh, em ruột hoặc con anh em chú, bác ruột. Có thể nuôi từ bé hoặc lớn rồi mới nuôi, thậm chí có người đã thành gia thất, có con rồi mới được nhận làm con nuôi. Người con nuôi lập tự đó chịu trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ nuôi lúc tuổi già và hương khói tang tế sau khi mất, nên được hưởng quyền thừa kế gia tài hơn cả những người con gái do chính cha mẹ sinh ra, vì con gái là “con người ta”, sau khi gả chồng lo cơ nghiệp nhà chồng.

Con nuôi lập tự được hưởng ruộng hương hỏa nếu cha nuôi là tộc trưởng, được họ hàng chấp nhận là cùng huyết thông nội thân. Nếu người con nuôi lập tự là con thứ của người em thì con của người con trưởng của người em vẫn phải gọi con nuôi lập tự đó bằng bác (đáng lẽ gọi là chú). Khi cha mẹ nuôi chết, tang chế của vợ chồng người lập tự cũng là ba năm như cha mẹ đẻ.

Trường hợp cha mẹ đẻ chết trước, phải xin phép cha mẹ nuôi mới được về chịu tang, nhưng không được phép mặc áo sổ gấu, khăn ngang không được để hai dải bằng nhau. Khi cha mẹ nuôi đã sinh con trai thì thôi quyền lập tự nhưng vẫn là con nuôi, được hưởng quyền thừa kế như các người con khác.

  • Con nuôi hạ phóng tử:
    • Con hoang thai nuôi từ lúc mới sinh. Có nhà hiếm hoi dặn từ trước, khi sinh nở thì đón về, sản phụ được bồi dưỡng một ít tiền và sau đó không được quyền nhận hay thăm con.
    • Con mồ côi hay con nhà nghèo khó, đem về nuôi làm phúc, mặc dù không hiếm hoi. Nếu nuôi thực sự từ lúc còn nhỏ cũng được hưởng mọi quyền lợi trong gia đình. Cha mẹ nuôi cũng có trách nhiệm dựng vợ gả chồng, sống nuôi chết chôn, cũng được cha mẹ nuôi chia cho một phần gia tài khi ra ở riêng.

Trường hợp cha mẹ nuôi không có con trai cũng có thể lập người con này làm thừa tự, song không được can dự vào phần hương hỏa, tự điền cũng như việc họ, bởi lẽ khác dòng máu, không được họ chấp nhận. Tang chế đối với cha mẹ nuôi cũng ba năm như cha mẹ đẻ, đối với anh em nuôi cũng một năm như anh em ruột, nhưng đối với họ hàng bên bố mẹ nuôi thì không tang.

Trừ trường hợp con nuôi đã mang họ của bố nuôi, không biết bố đẻ (hoang thai) và đã được họ hàng chấp nhận thì mọi lễ nghi hiếu hỉ, tang chế đều như người trong họ, song vẫn không được hưởng hương hỏa, tự điền. Nếu bố nuôi là tộc trưởng vẫn không được kế thế tộc trưởng mà vai tộc trưởng thuộc con trai trưởng của người em.

Theo phong tục của một số địa phương “Vô nam dụng nữ”, người con rể cũng có quyền lợi và nghĩa vụ như con nuôi hạ phóng tử nói trên, nhưng chỉ để tang bố mẹ vợ một năm, anh em ruột của vợ chín tháng, ngoài ra không để tang cho ai bên nhà vợ. Chỉ lập tự cho cháu ngoại, không lập tự cho con rể. Cháu ngoại cũng không được làm tộc trưởng.

  1. Con nuôi danh nghĩa
  • Nhà hiếm con, qua mấy lần tảo sa, tảo lạc, hữu sinh vô dưỡng, hoặc theo số tử vi lỗi giờ sinh, xung khắc với cha mẹ nên phải “bán” làm con nuôi cho dễ nuôi. Khi sinh nở xong, bố đẻ sắm một chai rượu, cơi trầu đến nhà bố nuôi, làm lễ gia tiên bên bố nuôi xin cho ghé cửa nương nhờ. Sau đó mời bố mẹ nuôi đến nhà xem mặt đứa bé và nhường quyền cho bố nuôi đặt tên. Sau này khi lớn lên, vào ngày Tết Đoan Ngọ dắt bé đến tết nhà bố mẹ nuôi. Đứa bé cũng được xếp theo vị trí anh em một nhà theo quan hệ lứa tuổi. Sau này lớn lên, trong huyết thông ba đời, anh em chú cháu không được quyền lấy nhau. Nếu vi phạm cũng coi như mắc tội loạn luân. Chọn bố mẹ nuôi thường chọn gia đình phúc hậu, đông con nhiều cháu, làm ăn thịnh vượng.
  • Do cảm ân đức, nghĩa tình mà nhận làm con nuôi.
  • Anh em kết nghĩa với nhau thân tình, nhận bố mẹ của anh em cũng như bố mẹ mình; và ngược lại, bố mẹ cũng nhận người anh em kết nghĩa với con mình như con cái trong nhà.

Trong những trường hợp đó, tiếng Việt gọi chung là con nuôi, bố mẹ nuôi, nhưng âm Hán gọi là “nghĩa phụ, nghĩa tử”, khác với loại bố nuôi, con nuôi chính thức gọi là “dưỡng phụ, dưỡng tử”. Tang chế không quy định cho trường hợp nghĩa phụ, nghĩa tử. Nếu có gả con cho nhau thì càng tốt đẹp: “thân thượng gia thân”.

  1. Con nuôi giả vờ

Vì con khó nuôi, sợ ma tà quấy nhiễu, người mẹ đem con bỏ đường bỏ chợ, nhưng dặn trước người chực sẵn đưa về nuôi, sau vài giờ hoặc vài ngày đến chuộc, nhận làm con nuôi. Đây là cách đánh tráo con đẻ thành con nuôi, con nuôi là con đẻ để lừa ma. Trường hợp này cũng phải chọn người mắn đẻ, con không sài đẹn, nuôi súc vật mát tay…

Ngoài ba loại con nuôi nêu trên, còn có tục “bán khoán” con cho thần linh như bán con cho Đức Thánh Trần, Đức Thánh Mẫu… Đã là con thần thánh, có tấu, có sớ, có bùa, có dấu ấn hẳn hoi thì ma quỷ không dám bén mảng đến đã đành, mà bố mẹ nuôi con cũng phải đặc biệt chú ý: không cho con ăn uống những thứ uế tạp, phải mặc đồ sạch sẽ, không được vá chằng vá đụp, không để con bò lê bò la, không được chửi rủa xỉ vả con, sợ ngài gọi về trời.

Con chỉ được gọi cha đẻ bằng thầy, bằng cậu… gọi mẹ bằng mợ, bằng chị, bằng u, bằng đẻ. Hai từ “cha”, “mẹ” chỉ được tôn xưng với thần thánh. Bán cho Đức Thánh Trần thì xưng họ Trần khi khấn vái, bán cho Phật xưng họ Mầu, nhưng bán cho Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì không phải đổi họ. Sở dĩ gọi là “bán khoán” vì chỉ bán trong thời gian còn nhỏ để dễ nuôi. Đến 13 tuổi tức hết tuổi đồng ấu, đến tuổi vào sổ làng, sổ xã thì làm lễ xin chuộc về.

Hiện nay, theo pháp luật, con nuôi cũng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang với con đẻ. Đó là con nuôi thực sự được chính quyền địa phương công nhận trên cơ sở thỏa thuận giữa người nuôi và người đẻ hoặc giữa người nuôi và thân nhân đời đầu trong trường hợp bố mẹ đẻ không còn.

Đứa bé đến tuổi thiếu niên cũng được quyền tự nguyện xin làm con nuôi, chọn bố mẹ nuôi. Bố mẹ nuôi có thể nuôi nhiều con tùy theo khả năng, nhưng một người không thể nhận làm con nuôi của nhiều gia đình. Tuổi bố mẹ nuôi phải cao hơn tuổi con nuôi ít nhất 20 tuổi.