ĐẠO HIẾU
Đạo hiếu là gì? Đạo hiếu theo quan niệm xưa và nay?
Theo chữ Hán, chữ “hiếu” là chữ viết tắt của chữ “khảo” ở trên (lược bớt phần dưới) và chữ “tử” ở dưới. “Hiếu” tức là mối quan hệ cha trên, con dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Đạo hiếu xuyên suốt trong mọi phong tục của nhân dân ta, không thể không đề cập đến chữ hiếu khi viết về phong tục cổ truyền của ta. Lễ tế, lễ tang, lễ cưới, kể cả sinh con, xây nhà, lễ hội, việc nước, việc làng thể hiện thuần phong mỹ tục của nhân dân ta; đồng thời trong số những phong tục đã lỗi thời, ta cũng chắt lọc được một phần tinh hoa của đạo hiếu.
“Hiếu” là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục ngữ đã đề cập nhiều, ngay trong bài học vỡ lòng, trong “Luân giáo khoa thư” các em đã hiểu: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Những chân lý đó, không ai là không chấp nhận, song quan niệm về chữ “hiếu” ngày nay cũng có phần khác thời xưa.
Dưới đây xin thuật lại một buổi tranh luận trong nội bộ một gia đình:
Trước tiên người bố hỏi “Hiếu” là gì? Cháu nội nhanh nhảu trả lời: “Hiếu” là hiếu với dân, Bác Hồ khuyên: “Trung với nước, hiếu với dân”. Đài báo cũng nhắc luôn: “Hiếu với dân, tức là cán bộ phải chăm lo cho dân, đừng ăn hối lộ, đừng hách dịch với dân”.
- Việc hiếu là gì?
- Việc hiếu là việc… là việc… là việc cán bộ chăm lo cho nhân dân mà không ăn của đút, không… – Đến đây cháu lúng túng. Cậu con út trả lời thay:
- Việc hiếu là việc đưa đám ma, hôm trước con đi một đám ma, khi đưa đám ma xong, ông hàng xóm đứng lên cảm ơn thân bằng cô hữu đã giúp gia đình lo xong việc hiếu.
Đến đây, người chú phụ họa thêm:
- Cháu nói có lý đấy anh ạ! Việc “hiếu” là việc đối với người chết, cho nên người ta thường nói “hiếu”, “hỷ”, tức là chỉ việc tang, việc cưới. Nhưng cháu ạ, việc hiếu phải ba năm chứ không phải đưa ma xong là xong đâu! Đến như Tiến sĩ Lý Trần Quán, một người tận trung tận hiếu cuối triều Lê, trước khi chết còn viết đôi câu đối: “Tam niên chi hiếu dĩ hoàn. Thập phần chi trung vị tận” (chữ “hiếu” ba năm đã xong, chữ “trung” mười phần chưa trọn).
- Hiếu đối với người chết, còn đối với người sống thì sao? “Sự tử như sự sinh” kia mà?
- Ừ, anh muốn biết con anh có hiếu hay không, xin anh hãy ráng chờ sau khi anh chết sẽ rõ. Ca dao có câu “Sinh sông thì chẳng cho ăn. Đến khi chết xuống làm văn tế ruổi”. Thời xưa còn thế, nghĩa là bây giờ…
Đến đây lại chuyển sang mục tranh luận giữa người bố và chú em về quan niệm chữ “hiếu” thời xưa và thời nay.
- Thời nay lớp trẻ chẳng biết “chín chữ cù lao” là gì. Công ơn mang nặng đẻ đau, nuôi con khôn lớn tốn bao nhiêu tâm lực, đến nay chúng nó có lớn mà chẳng có khôn.
- Đã thế còn hỗn láo, bướng bỉnh… – Người anh phàn nàn.
- Đó chẳng qua là món nợ đồng lần, mình nuôi con rồi con nuôi cháu cũng thế. Lớp trẻ bây giờ nhiều người nói ngược: “Sinh ra ta, nuôi ta lớn lên, đó là trách nhiệm của bố mẹ”. Có đứa còn trách bố mẹ: “Sao con người ta ăn sung mặc sướng, được chiều chuộng. Bố mẹ mình thì ‘khắt khe’ mà còn kể ân huệ!” – Người chú tiếp thêm.
Đối với những ông bố, bà mẹ có những đứa con như vậy, quả thật là bất hạnh, song cũng phải khẳng định số người đó rất ít, và lại khi đến tuổi trưởng thành, được tiếp thu sự giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và qua khảo nghiệm thực tế của cuộc đời, tính tình chúng sẽ thay đổi. Bố mẹ bao giờ cũng sẵn sàng tha thứ, nước mắt chảy xuôi là lẽ thường tình.
Bàn đến câu ca dao: “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư”, rồi “Trứng khôn hơn vịt” … được dịp, anh con cả xen vào:
- Con xin phép cha mẹ và chú, con cãi cha mẹ không phải trăm đường con hư cả. Nếu cha mẹ nghĩ sai làm sai, con can ngăn thì đó có phải là bất hiếu đâu! Người chú gật gù tán thành:
- Cháu nói có lý. Câu “Con cãi cha mẹ trăm đường con hư” chỉ đúng khi đứa con còn thơ ấu, chứ khi đã trưởng thành có nhiều cô cậu còn khôn hơn cha mẹ. “Con hơn cha là nhà có phúc”. Ngày nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ và không ngừng đổi mới, tư duy chính trị, kinh tế cũng đổi mới mà cánh già chúng ta thường hay thủ cựu, bảo thủ cố chấp. Âu cũng là mâu thuẫn giữa hai thế hệ…
Yến lão
“Yến lão là tiệc rượu. Nhiều làng có tục yến lão, hàng năm hay hai ba năm một lần tổ chức tiệc mừng thọ các quan lão. Có thể nói đây là một thịnh điển thời thái bình, không phải là một hủ tục đã gây nên nhiều tệ đoan như tục ngôi thứ hương ẩm. Sống lâu, lão làng, tự nhiên có vinh dự tuổi thọ, không phải tranh giành mới có, chẳng phải có tiền mà mua được, có quyền mà tạo nên được.
Mỗi năm cứ đến dịp làng mở hội hoặc ngày đại lễ có định kỳ, các quan lão tụ hội ở chùa hay nơi công quán hay một nhà đương cai, làng đem cò quạt với phường bát âm đến rước ra đình. Những làng trù phú thường sắm đủ võng lọng rước lão, lão 100 tuổi đi võng điều che bốn lọng xanh, lão 90 tuổi đi võng điều hai lọng xanh, lão 80 tuổi võng xanh (đòn cong) một lọng, lão 70 tuổi võng xanh (đòn ông) một lọng. Trai tráng cầm cò khiêng võng đều đội nón dấu áo nẹp. Đám rước rất trọng thể.
Tại đình làng, bàn thờ tiên lão được lập ở chính giữa, các quan lão ngồi hai gian bên theo thứ bậc tuổi, có làng yến cả lão bà thì lão ông ngồi gian trái, lão bà ngồi gian phải.
Tùy theo lệ làng, có nơi lão 90 tuổi hoặc lớn hơn nữa ngồi một mình chiếu nhất, có nơi chưa đến 60 tuổi đã là bậc cao niên nhất, cũng ngồi một mình chiếu nhất.
Tế lão cũng đủ nghi thức như tế thần, ba tuần rượu với văn tế tiên lão, văn chúc thọ quan lão, có ban tư văn hành lễ, phường bát âm tấu nhạc. Lúc tế, quan lão ngồi trước những mâm cỗ đặt giữa chiếu, chỉ uống rượu suông không ăn, là thủ ý trang nhã, trịnh trọng đối với dân làng, ngồi chứng kiến cuộc lễ diễn ra và chăm chú nghe văn tế, văn chúc thọ. Những mâm cỗ kia sẽ được mang đến từng nhà biếu các cụ.
Cỗ yến lão thường rất thịnh hậu cả về phẩm lẫn lượng, có nơi mỗi cỗ yến lão gồm hai bánh dày, hai bánh chưng với các món giò, nem và nhiều thứ bánh khác làm rất công phu.
Chiếu nhất, một cụ ngồi thì được biếu cả một cỗ gọi là cỗ một; chiếu nhì, hai cụ ngồi là cỗ đôi thì được biếu mỗi cụ một nửa cỗ; những cỗ dưới là đồng hạng cứ bốn cụ một cỗ.
Từ ngàn xưa, những khi có việc, không hề có bóng phụ nữ nơi đình trung. Ngày yến, sự hiện diện của các lão bà đem lại cho dân làng một cảm giác đặc biệt vui vẻ đầm ấm.
Ở nước ta, tục yến lão có xuất xứ từ đạo hiếu, một đặc tính dân tộc, có ý nghĩa rất trọng hậu, trẻ vui đạo trẻ, già vui tuổi già.
Lúc vãn niên, tóc bạc da mồi, với cuộc sống buồn tẻ nơi thôn dã năm tháng trôi, các cụ hẳn cũng cảm thấy vui sướng được cả làng bày tỏ sự quý trọng, quý trọng rất mực trong cuộc rước đón những buổi yến ẩm, con cháu các cụ thì được hãnh diện là gia đình có phúc mới được tuổi thọ, cho nên nhiều nhà dù nghèo cũng ráng may sắm đồ cho ông bà đi dự yến.
Cụ thì mũ ni nhung đen, áo vóc đại hồng; cụ thì khăn nhiễu tam giang, giày văn hài; cụ thì áo đoạn huyền quần lụa bạch; có những cụ nhà bần hàn, quanh năm quần nâu áo vải lúc này cũng quần chúc bâu, áo the thâm, áo láng chéo go, dép mới thay quai… Y phục của các cụ tùy vào hoàn cảnh mỗi nhà, không có lệ định nào, chỉ trừ màu vàng của nhà vua, quan dân đều không được mặc.
Trước ngực, dưới vòng dây thao quàng cổ là túi gấm màu lam, màu huyền đựng trầu, thuốc, cối, chày…
Đám rước quan lão, y phục màu sắc như vậy với võng lọng cò quạt, vừa huy hoàng ngoạn mục vừa gợi cảm. Những nhà từ mấy đời không hề có ông cha được dự, không khỏi bùi ngùi tiếc thương người đã khuất, không khỏi thèm muốn ước mong cho gia đình đời nay và đời sau.
Việc họ
Từ năm 1975 đến nay, nhất là những năm gần đây, từ Bắc đến Nam đều có phong trào phục hồi việc họ, với nội dung: diễn dịch, biên soạn, phổ biến gia phả, sửa sang tôn tạo mồ mả, từ đường; tổ chức tế tự, giỗ tổ hằng năm… và nhờ đó tình cảm gia tộc gắn bó hơn trước. Đó là một phong trào tự phát, chưa có một văn bản, chỉ thị nào của cơ quan trung ương, địa phương hay ngành văn hóa có hướng dẫn khuyến khích. Vậy nhân tố nào chỉ đạo, thúc đẩy phong trào lan rộng, nhanh như vậy?
Đây là quy luật phát triển xã hội khách quan.
Trong thời kỳ kháng chiến, mọi người dân, trên cương vị của mình, đều phải dồn toàn bộ tâm sức vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, và khi đó đều phải lo những vấn đề bức xúc nhất: ăn, ở, sống chết… và những việc không thể đình hoãn được. Sau hòa bình, cuộc sống vật chất đã tương đối ổn định, nhu cầu về đời sống tinh thần, văn hóa cao hơn. Việc đi lại, thăm viếng nhau trong gia đình họ hàng thân thuộc, việc củng cố, gắn bó mối quan hệ gia tộc, việc thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha mẹ từ ngàn xưa đã trở thành văn hóa của người Việt Nam.
Dưới bất kỳ xã hội nào, dù xu hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, tình cảm gia đình vẫn vậy. Tính gia tộc là khái niệm mở rộng của tình gia đình, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Đó là tình cảm tự nhiên, mọi người đều thừa nhận.
Vì vậy, khôi phục việc họ là hợp với tâm tư của số đông nhân dân, một người đề xướng được trăm người hưởng ứng. Đó cũng là thuần phong mỹ tục.
Phục hồi việc họ là việc làm đúng, vô tư, phát huy được thuần phong mỹ tục. Nếu cán bộ cơ sở biết khéo léo vận dụng đường lối, loại trừ được ba chiều hướng tiêu cực sau đây thì càng có nhiều dòng họ vững mạnh, càng có lợi cho phong trào chung:
- Ngăn ngừa một số phần tử lợi dụng tình cảm họ hàng thân thuộc để kéo bè, kéo cánh.
- Phục hồi việc họ, đồng thời nhân đó phục hồi luôn cả những hủ tục, mê tín dị đoan.
- Dựa vào thế có người nhà, người trong họ có chức có quyền để bóp méo luật pháp, làm ăn sai trái.
Ngoài ra, nếu tổ chức hội hè đình đám không đúng lúc, đúng chỗ, gây lãng phí nhiều thời gian và tiền của, ảnh hưởng đến công việc, thời vụ sản xuất, thì nên khéo léo hướng dẫn nhằm hạn chế mặt tiêu cực.
Họ hàng thành đạt thì làng xã phồn vinh.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bộ máy hương lý có quyền điều hành những công việc về hành chính, pháp lý, trật tự trị an; còn những việc xây dựng nông thôn, chấn hưng phong hóa như làm đường sá, đào giếng, sửa sang đình chùa, hội hè…, hội đồng hào mục phải huy động công sức, tiền của dân, phải dựa vào các họ nên mỗi xã, thôn có một hội đồng tộc biểu bao gồm những người có vai vế trong các họ. Chỉ những vị đó mới có khả năng vận động con cháu trong các họ ra làng xã làm những việc công ích.
Phục hồi việc họ, nếu được hướng dẫn đúng, sẽ có lợi nhiều mặt đối với các phong trào ở địa phương:
- Phục hồi luân lý, đạo đức, kỷ cương xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới.
- Góp phần trong việc giáo dục tư tưởng cha mẹ hiền từ, con trung hiếu, cháu thảo hiền, nuôi con khỏe, dạy con ngoan.
- Vận dụng kinh nghiệm của các họ thời xưa, có đặt binh điền, học điền, tổ chức lễ họ, hội tương tế. Vận động đặt các giải thưởng cho con cháu trong họ học giỏi, lên lớp, lên cấp, hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nêu cao ý thức tôn trọng người già, thương yêu giúp đỡ người cơ nhỡ, ốm đau, tàn tật…
Nếu khéo tổ chức, các họ còn có thể có tủ sách, câu lạc bộ văn hóa…
Ruộng hương hỏa
“Ruộng hương hỏa” là ruộng dành riêng giao cho tộc trưởng lo việc phụng thờ hương khói cho ông cha, tổ tiên. Ruộng hương hỏa lưu truyền từ đời này sang đời khác. Ruộng hương hỏa không được chia, không được bán. Luật pháp thời phong kiến cấm bán ruộng hương hỏa. Chừng nào con cháu tộc trưởng không còn người nối dõi tông đường hoặc đi biệt xứ xa quê, họ khuyết tộc trưởng thì người con trưởng hoặc đích tôn thừa trọng của gia đình sẽ lên thay, tiếp tục hưởng ruộng hương hỏa và lo việc giỗ tết, hương khói. Chừng nào toàn bộ con cháu trong họ đều phiêu cư bạt quán (con gái không được tính đến) thì người cuối cùng đang hưởng hương hỏa nếu có khó khăn đặc biệt làm đơn xin bán, lý trưởng đóng dấu cho bán, nhưng chỉ được bán quyền. Lý trưởng nào làm sai luật lệ trên sẽ bị quan xử phạt, nếu trong họ có người thưa kiện.
Vì có ruộng hương hỏa nên việc tế tự được duy trì bền vững, dù họ lớn hay bé, thịnh đạt hay bình thường, dù tộc trưởng giàu hay nghèo, sang hay hèn, già hay trẻ (có khi mới chỉ là đứa bé con năm bảy tuổi) việc tế tự vẫn uy nghi đông đủ.
Tộc trưởng xưa và nay khác nhau như thế nào?
Ngày xưa, việc họ là cứ vào tộc trưởng. Họ lớn có tộc trưởng họ lớn; các chi có trưởng chi. Tộc trưởng có quyền lợi, nghĩa vụ rõ ràng. Ruộng hương hỏa và tự điền có nhiều thì lễ to, nhà thờ họ lớn, tế khí đầy đủ và ngược lại. Khi vào tế lễ, tộc trưởng dù còn trẻ tuổi vẫn là chủ tế, các ông chú cao tuổi vẫn là bồi tế. Nếu tộc trưởng còn nhỏ quá thì một ông chú kế trưởng thay thế, cũng như ông vua trẻ chưa thành niên có phụ chính đại thần.
Ngày nay, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không còn ruộng hương hỏa, không còn chế độ thu tô như trước, quyền lợi của tộc trưởng hoặc người thay tộc trưởng dĩ nhiên phải thay đổi; nghĩa vụ của tộc trưởng đối với tổ tiên và họ hàng cũng tùy thuộc vào nhận thức, tâm tư, trình độ hiểu biết, hoàn cảnh sinh sống của từng người, không có quy định nào ràng buộc. Có nhiều họ, tộc trưởng ngụ cư hoặc thoát ly công tác ở phương xa cũng không giao (hoặc không giao được) việc họ cho ai. Trong hoàn cảnh đó, việc hương khói, tế tự tổ tiên và quan hệ họ hàng bị phế bỏ.
Thể theo nguyện vọng, tâm tư, tình cảm “uống nước nhớ nguồn”, ngày giỗ, ngày tết con cháu muốn dâng lên tổ tiên bát nước, nén hương… nhiều họ đã có sáng kiến thành lập một hội đồng gồm những người có uy tín, nhiệt tình trong họ để chăm lo việc họ. Chưa có một văn bản hay một tiền lệ nào quy định đó là ban nghi lễ, là hội đồng gia tộc hay hội đồng tộc biểu…
Trước mắt, họ nào mạnh hay yếu, thịnh đạt hay suy vi, tình cảm họ hàng gắn bó hay không, tác động tốt hay xấu tới phong trào chung còn tùy thuộc vào sự nhiệt tình, khả năng tổ chức lãnh đạo của một số cá nhân đóng vai trò chủ chốt, chứ chưa có một cơ chế nào bảo đảm sự bền vững lâu dài.
Thờ vọng và cách lập bàn thờ vọng
Bàn thờ vọng ngày nay khá phổ biến, áp dụng cho con cháu sống xa quê hướng vọng về quê, thờ cha mẹ, ông bà, tổ tiên, hương khói trong những ngày giỗ, tết. Ngày xưa, với nền kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp, người nông dân suốt đời không rời quê cha đất tổ, chuyển cư sang làng bên cạnh cũng đã gọi là biệt quán, ly hương, vì vậy bàn thờ vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thành phong tục phổ biến.
“Vọng bái”, nghĩa là vái lạy từ xa. Ngày xưa, khi triều đình có những điển lễ lớn, các quan trong triều tập trung trước sân rồng làm lễ, các quan ở các tỉnh hoặc nơi biên ải thiết lập hương án trước sân công đường, thắp hương nến, hướng về kinh đô quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê chịu tang cũng thiết lập hương án ngoài sân, hướng về quê làm lễ tương tự. Các bàn thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời, sau đó con cáo quan xin về cư tang ba năm (xem bài Lễ cúng tang). Hằng năm, các thiện nam tín nữ đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ở Vạn Kiếp, Đức Thánh Mẫu ở đền Sòng… dần dần về sau, đường xa xôi, cách trở, đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập trung dần dần hình thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến đền thờ chính xin bát hương về thờ. Những đền thờ đó gọi là vọng từ (ví dụ ở số nhà 35, phố Tôn Đức Thắng, Hà Nội, có Sùng Sơn vọng thờ nghĩa là Đền thờ vọng của Núi Sòng, thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Bàn thờ vọng thờ ông bà, cha mẹ chỉ được lập trong trường hợp sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ giàu nghèo, sang hèn thế nào, nếu ở gần cánh cửa trưởng trên đất tổ phụ lưu lại thì đến ngày giỗ, ngày tết, con thứ phải có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến nhà thờ hay nhà con trưởng làm lễ, cho dù cửa trưởng chỉ thuộc hàng cháu, thì chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại nhà cửa trưởng. Do đó, không có lệ lập bàn thờ vọng đối với cửa thứ ngay ở quê nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, thì người con thứ hai thế trưởng được lập bàn thờ chính, còn bàn thờ ở nhà người anh cả xa quê lại là bàn thờ vọng.
Phong tục này rất hay và rất có ý nghĩa. Bởi lẽ chữ hiếu đi đôi với chữ đệ. Khi sống cũng như đã mất, ông bà cha mẹ bao giờ cũng mong muốn anh chị em sống hòa thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh vong linh về cúng lễ, mà anh chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi người cúng một nơi thì đó là mầm mống của sự bất hòa, vong linh không thể thanh thản được.
Cách lập bàn thờ vọng
Đây chưa phải là phong tục có truyền thống, chưa có nghi lễ nhất định, mà chỉ là kinh nghiệm truyền cho nhau khoảng từ đầu thế kỷ XX trở lại, nay tùy hoàn cảnh mà vận dụng: Khi bắt đầu lập một bàn thờ vọng phải về quê chính báo cáo gia tiên tại bàn thờ chính. Sau đó xin phép chuyển một lư hương phụ hoặc mấy nén hương đang cháy dở mang đến bàn thờ vọng rồi thắp tiếp. Nếu có nhà riêng tương đối rộng rãi khang trang thì bàn thờ đặt hẳn một phòng riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ở phòng khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách. Nếu đặt bàn thờ gia thần riêng, thì phải đặt thấp hơn bàn thờ gia thần một ít. Đặt hướng nào? – Hướng về quê chính, để khi người thắp hương vái lạy thuận hướng vái lạy về quê. Ví dụ người quê miền Trung sống ở Hà Nội thì đặt bàn thờ vọng phía nam căn phòng hay ngoài sân, ngoài hiên. Không nên đặt bàn thờ trong buồng ngủ, trừ trường hợp nhà chật hẹp quá thì phải chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp, hoặc cạnh lối đi. Đối với những gia đình ở khu tập thể cao tầng, không nên quá câu nệ khi đặt bàn thờ. Những người sống tập thể, chỉ đặt một lọ cắm hương đầu giường nằm của mình cũng đủ, miễn là có lòng thành kính, không cần phải câu nệ hướng nào, cao thấp rộng hẹp ra sao.
Hợp tự là gì? Tại sao phải hợp tự?
Hợp tự có nghĩa là rước các tiên linh các đời vào thờ chung trong cùng một nhà thờ của đại tôn hay của từng tiểu chi.
Theo phong tục cổ truyền: Năm đời tống giỗ, hay “ngũ đại mai thần chủ” (đến 5 đời thì chôn thần chủ). Thực chất chỉ có 4 đời, tức là làm giỗ cha mẹ (đời 2), ông bà (đời 3), cụ ông cụ bà (hay cố đời 4) và kỵ (hay can đời 5). Cao hơn kỵ gọi chung là tiên tổ, thì không cúng giỗ nữa, mà rước chung tất cả thủy tổ, tiên tổ các đời vào chung một nhà thờ mỗi năm tế một lượt. Thần chủ con cúng cha mẹ, đề là hiển khảo, hiển tỷ; đến khi người con trưởng chết, cháu đích tôn cúng ông bà, đối thần chủ là hiển tổ khảo, hiển tổ tỷ; đến lượt cháu trưởng mất, chắt trưởng tiếp tục thờ cụ là hiển tằng tổ khảo (hoặc tỷ); chít (chiu) trưởng thờ kỵ là hiển cao tổ khảo (hoặc tỷ). Sau năm đời thì rước vào nhà thờ lớn rồi chôn thần chủ đó đi. Trong nhà thờ lớn chỉ để duy nhất một ngôi thần chủ cao nhất (thủy tổ hoặc tiên tổ bậc cao nhất của nhà thờ chi đó) gọi là “Vĩnh thế” thần chủ.
Gộp chung tất cả tiên tổ của nhiều đời lại để tế chung thay cho từng lễ giỗ, đó là hình thức hợp tự cổ truyền. Song trong phong tục đó còn có nhiều điều bất tiện: Chỉ con trưởng, cháu trưởng, chắt trưởng… nối dòng qua nhiều đời mới được thờ ở nhà thờ chính. Vì vậy, con, cháu, chắt những người con thứ qua nhiều đời phải xây nhiều nhà thờ lớp con thứ, lớp cháu thứ, lớp chắt thứ… Nếu cứ thế tiếp tục mãi, thì có nơi số nhà thờ còn nhiều hơn cả số nhà ở của người đang sống. Vì vậy, đầu thế kỷ XX đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở nhiều nơi đã có phong trào tiến hành hợp tự vào các nhà thờ họ: dù cửa trưởng hay cửa thứ, sau khi mất, hết vòng tang đều được rước linh vị vào thờ ở nhà thờ chung của họ. Linh vị xếp theo thế thứ trên dưới. Đến ngày giỗ người nào, thì đưa linh vị người đó vào hàng giữa theo thứ bậc, cúng xong lại xếp vào vị trí cũ. Việc hợp tự như vậy trước là hợp với tâm linh, con cái ở dưới chân cha mẹ, cháu chắt về với tổ tiên, tượng trưng cho sự đoàn tụ ở cõi âm, sau nữa thuận tiện cho việc chung sức, chung lòng xây dựng nhà thờ, mua sắm tế khí, quanh năm hương khói, gắn bó thêm mối tình ruột thịt trong nội thân. Song cũng có những gia đình kinh tế dồi dào hơn, lại ở cách xa nhà thờ đi lại bất tiện, nên họ cúng riêng, tiện hơn, không hợp tự. Do đó, ngày nay nên vận động hợp tự trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện.
Gia phả là gì?
Gia phả là lịch sử của một dòng họ, một gia đình lớn. Không cần đề cập nhiều về ý nghĩa vì trong mỗi cuốn gia phả của từng dòng họ đều đã nêu rõ ở lời tựa. Đành rằng cái ăn, cái mặc để nuôi sống gia đình và bản thân là việc hàng đầu. Nhưng có thấy nỗi day dứt của những người có tâm huyết muốn truyền cho con cháu biết cha mình do ai sinh ra, từ đâu đến, tổ tiên công đức ra sao, ngặt vì gia phả đã mất; có thấy được nỗi niềm của những người trú ngụ ở phương xa không được cha ông truyền cho biết gốc gác của mình từ đâu, họ hàng là ai, mới thấy đầy đủ ý nghĩa của hai chữ “Gia phả – Gia bảo”. Giọt nước rất quý đối với người sống trên sa mạc, còn đối với người sống ven sông, thế gì mỗi lần “uống nước” lại phải “nhớ nguồn”.
Thời trước họ nào cũng có gia phả, có họ từng nhà còn có gia phả. Nếu vì thủy, hỏa, đạo tặc để mất vàng bạc, của cải gì thì mất, chứ không để mất gia phả. Ngặt vì gia phả ngày xưa viết bằng chữ Hán, hơn nữa từng chi từng nhà chỉ nối phần trực hệ của chi mình, nhà mình, thảng hoặc mới có một cuốn gia phả ghi đời tiếp nối của chi anh, chi em, đến đời hai đời ba là cùng, do đó nếu một chi mất gia phả thì chi khác không thể bổ cứu. Hiện nay, do mất gia phả nên nhiều họ tuy cùng ở với nhau trong một địa phương vẫn không biết nhau, không nhận được quan hệ họ hàng.
Theo một ý nghĩa khác, gia phả sở dĩ gọi là gia bảo vì đó là lịch sử của tổ tiên nhiều đời truyền lại, là điều tổ tiên muốn gửi gắm lại cho đời sau. Bất cứ họ nào, bất cứ con người nào trong họ, có tài năng lỗi lạc đến đâu, cá nhân cũng không thể viết được toàn bộ gia phả mà chỉ có kế thừa đời trước và truyền dẫn đời sau.
Gia phả các họ còn là nguồn bổ sung tư liệu rất quý, rất dồi dào cho quốc sử, nếu các nhà sử học khai thác được thì cũng có thể tư liệu từ gia bảo trở thành quốc bảo.
Gia phả được coi là hoàn chỉnh trước hết phải là một gia phả được ghi chép rõ ràng, chữ nghĩa chân phương, có ghi rõ tên người sao lục, biên soạn thuộc đời thứ mấy, năm nào, triều vua nào, căn cứ vào bản nào, tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ ràng. Đầu gia phả có lời tựa ghi nguồn gốc xuất xứ của thủy tổ với cứ liệu thành văn hay truyền ngôn.
Mở đầu là thủy tổ, lần lượt đến tiên tổ các đời, nối dòng đến lớp con cháu mới sinh.
Đối với tiền nhân có các mục sau đây:
- Tên: gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy?
- Con trai thứ mấy của ông nào? bà nào?
- Ngày tháng năm sinh (có người còn ghi được cả giờ sinh).
- Ngày, tháng, năm mất? Thọ bao nhiêu tuổi?
- Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu? Vào tháng, năm nào?).
- Học hành, thi cử, đỗ đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất: Thi đỗ học vị gì? Khoa nào? Triều vua nào? Nhậm chức vị gì? Năm nào? Được ban khen và hưởng tước lộc gì? Sau khi mất được truy phong chức gì? Tước gì? (Đối với những người hiển đạt thì mục này rất dài. Ví dụ trong Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, chỉ riêng Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, mục này là trên 10 trang).
- Vợ: chánh thất, kế thất, thứ thất… Họ tên, con gái thứ mấy của ông nào, bà nào? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng, năm sinh; ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên. Nếu có thi đỗ hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.
- Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì cước chú kỹ: con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi họ tên chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, đỗ đạt, chức tước? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì? (Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).
- Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với làng xã, họ hàng, xóm giềng…
Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia truyền… Đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác.
Những nội dung ghi trên chỉ có tính chất gợi ý với các bậc huynh trưởng các họ đang chăm lo công việc phổ biến và tục biên gia phả dành cho con cháu đời sau, còn phần trên gia phả hoàn chỉnh hay sơ sài, các cụ còn dành lại cho ta được bao nhiêu biết bấy nhiêu, ai dám sáng tác thêm? Tuy nhiên, nếu tìm được quốc sử, hoặc trong gia phả, thần phả khác những tư liệu liên quan thì có thể cước chú kỹ, giúp cho đời sau thêm sáng tỏ.