Thành nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành nước ta từ năm 1398 đến 1407.
Thành nhà Hồ do Hồ Quý Ly – lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà Trần – cho xây dựng vào năm 1397. Thành được xây trong thời gian rất ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng 1 đến tháng 3-1397). Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông rời đô từ Kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước là Đại Ngu (1400-1407). Thành nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Trong lịch sử, Thành nhà Hồ còn có các tên gọi khác là: An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai, Thạch Thành.
Phức hợp di sản Thành nhà Hồ gồm có: thành Nội, Hào thành, La thành, đàn tế Nam Giao; ngoài ra còn có các di tích khảo cổ dưới lòng đất, các làng cổ, các di tích chùa đền, hang động, toàn bộ cảnh quan núi non, sông nước liên quan tới Thành nhà Hồ.
- Thành Nội (Hoàng Thành) được xây dựng gần như hình vuông; có chu vi 3.508m; diện tích 142,2 ha; tường thành chiều nam – bắc dài 870,5m; chiều đông – tây dài 883,5m. Thành Nội có 4 cổng, được mở ở chính giữa của bốn bức tường thành. Toàn bộ tường thành và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá xanh, đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các phiến đá có chiều dài trung bình 1,5m, dày 1m, nặng khoảng từ 15 đến 20 tấn. Trục chính của thành không theo đúng hướng bắc nam, nhưng các cổng vẫn được gọi tên theo bốn hướng chính: cổng Nam, cổng Bắc, cổng Đông, cổng Tây (hay còn gọi là: Tiền, Hậu, Tả, Hữu). Các cổng này được xây dựng theo kiến trúc hình vòm. Những phiến đá trên vòm cửa đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít lên nhau. Cổng Nam là cổng chính, có ba cửa. Ba cổng còn lại chỉ có một cửa. Tường thành cao trung bình từ 5-6m, chỗ cao nhất là cổng Nam cao 10m. Các nhà khoa học đã ước tính toàn bộ phần tường đá chiếm khoảng 25.000m³.
Thành Nội có các công trình kiến trúc như: điện Hoàng Nguyên, cung Nhân Thọ, cung Phù Cực, Đông cung, Đông Thái miếu, Tây Thái miếu…
Tuy nhiên, hiện nay thành Nội chỉ còn lại một số di tích và di vật như: phần tường thành, bốn cổng thành, dấu tích các hồ nước, đôi rồng bậc thềm làm bằng đá, nền móng kiến trúc thành Nội, đường lát đá Hoa Nhai, bia đá, đạn đá, đồ gốm sứ, khuôn viên cổng Nam và các hiện vật có giá trị đặc trưng cho văn hóa Trần – Hồ.
- Hệ thống Hào thành nằm bao quanh thành Nội và được nối thông với sông Bưởi qua một con kênh ở góc đông nam của thành. Hào thành có bốn cầu đá bắc vào 4 cửa của thành Nội. Ngày nay, nhiều phần của Hào thành đã bị lấp cạn. Tuy nhiên, dấu tích của Hào thành vẫn có thể nhận thấy rất rõ ở phía bắc, phía đông và một nửa phía nam của thành.
- La thành là vòng thành ngoài cùng của Thành nhà Hồ, được xây dựng để che chắn cho thành Nội và là nơi sinh sống của cư dân trong thành. La thành dài khoảng 10km, được xây dựng dựa theo địa hình tự nhiên. Nhà Hồ đã dựng La thành bằng cách cho đắp đất, trồng tre gai để nối liền các ngọn núi Đốn Sơn (xã Vĩnh Thành), Hắc Khuyển (xã Vĩnh Long), Xuân Đài, Trác Phong, Tiến Sỹ (xã Vĩnh Ninh), Kim Ngọ (xã Vĩnh Tiến), Kim Ngưu, Tượng Sơn (xã Vĩnh Quang) với hai con sông là sông Bưởi và sông Mã. Hiện nay, dấu tích của La thành thuộc địa phận làng Bèo (xã Vĩnh Long) với chiều dài 2.051,9m, cao khoảng 5m, mặt cắt dạng hình thang với bề mặt rộng 9,2m, chân thành rộng 37m đã được khoanh vùng bảo vệ.
- Đàn tế Nam Giao, hay còn gọi là đàn Nam Giao, là một công trình kiến trúc cung đình quan trọng, được xây dựng năm 1402 ở phía tây nam núi Đốn Sơn, nằm thẳng trên đường thần đạo từ cổng Nam nhìn ra, cách Thành nhà Hồ khoảng 2,5km về phía đông nam. Đàn Nam Giao có diện tích 43.000m². Mặt bằng hiện tại còn lộ rõ năm nền đất với năm bậc cấp. Từ nền đàn cao nhất xuống nền đàn thấp nhất chênh lệch nhau là 7,8m. Đàn Nam Giao là nơi tế trời, cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, vương triều trường tồn, thịnh trị. Ngoài ra, đàn còn là nơi tế linh vị của các hoàng đế, các vì sao và nhiều vị thần khác. Tế Nam Giao còn là lễ tạ ơn trời đất về sự hiện diện của vương triều, được coi là nghi lễ mang tính cung đình. Lễ tế Nam Giao đầu tiên của triều Hồ được tổ chức cùng năm xây dựng. Đây là đàn tế duy nhất ở Việt Nam còn khá nguyên vẹn về mặt di tích và có quy mô hoành tráng, hòa quyện giữa kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên.
Thành nhà Hồ là một công trình kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong giai đoạn cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, dù không phải công trình duy nhất trong nước và khu vực có lối kiến trúc bằng đá. Thành nhà Hồ được xây cất từ những khối đá tảng cực lớn, gọt đẽo vuông vức rồi ghép lại với nhau một cách tự nhiên.
Bằng công cụ thô sơ, chỉ dùng sức người là chính, vậy làm thế nào những người thợ có thể chuyển những khối đá nặng trên chục tấn lên cao 8-10m, xếp chúng chồng khít với nhau mà không dùng bất kỳ chất kết dính nào để “vá” các phiến đá, cho đến nay đó vẫn còn là ẩn số chưa thể lý giải.
Nhờ kỹ thuật xây dựng độc đáo, sử dụng các vật liệu bền vững, trải qua hơn 600 năm với nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, đến nay Thành nhà Hồ vẫn được bảo tồn rất tốt trong cảnh quan thiên nhiên còn hầu như nguyên vẹn. Đây là một trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động của quá trình đô thị hóa, cảnh quan và quy mô kiến trúc còn được bảo tồn gần như nguyên vẹn cả trên mặt đất và trong lòng đất ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Thành nhà Hồ được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa thế giới tại Kỳ họp lần thứ 35, ngày 27-6-2011 của Ủy ban Di sản thế giới.