Đình và miếu thuộc xã Đình Xuyên, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Từ trung tâm Bờ Hồ theo đường Tràng Tiền, qua Nhà Hát Lớn rẽ tay trái ra đường Trần Nhật Duật, qua cầu Chương Dương, cầu Đuống đến km 11-12, qua thị trấn Yên Viên rẽ trái đi thêm 2km tới làng Công Đình và di tích.
Đình Công Đình thờ Thành hoàng là Đức Tả Phù. Theo truyền thuyết, Tả Phù quê ở Phù Ninh, nhà nghèo, có tài chăn ngựa cho vua. Lúc ấy có giặc Bầu nổi lên ở miền ngược, ông xin đi đánh giặc, được chọn làm thám tử. Ông tỏ ra gan dạ và mưu trí, nắm được nhiều tin của giặc. Ông giả ăn mặc rách rưới đến trại giặc, lừa cho giặc uống rượu say rồi ra hiệu cho quân lính nhà vua tiến đánh. Giặc thua to, do có công, ông được phong “Tấn nhật nhất phong”. Ông xin vua cho 3 ngôi nhà của giặc Bầu, dỡ đem về xây dựng đình thờ thần có công phù giúp. Đến khi ông mất, được dân làng thờ ở đình là Thành hoàng làng.
Dòng chữ khắc niên đại 1668 và dấu ấn kiến trúc phong cách thời Lê là minh chứng thời khởi dựng của đình Công Đình.
Đình Công Đình còn lưu giữ được rất nhiều dấu ấn ban đầu.
Tam quan kiểu cột đồng trụ, đắp nghê chầu. Phương đình có 16 cột gỗ lim to, 2 tầng mái với 8 lá mái, các góc đao dạng hình rồng cuốn đuôi cá chép. Phần trang trí chủ yếu ở cốn nách, đầu dui, đầu bẩy chạm rồng và phượng vũ hai cánh xòe rộng trong thế dang tay.
Đại đình 5 gian 2 chái, 3 gian giữa làm kiểu 2 cánh lớn, 2 bên cửa bức bàn. Kết cấu 4 bộ vì kèo không có giá chiêng mà làm “chữ thập chống nóc”. Phần trang trí quan trọng là hệ thống đầu dư, tương tự như hệ thống đầu dư đình Đình Bảng, Hà Bắc, mang đậm nét phong cách hậu Lê. Đó là các đầu rồng mũi hếch, miệng há, ngậm ngọc châu, râu tóc hình số 8. Bộ phận cánh én đỡ xà hạ là chi tiết kiến trúc đặc biệt nhất ở đình Công Đình, gá đỡ kiểu cánh én làm trên thân gỗ bẹt hình đầu quay vào gian giữa, đuôi quay sang gian bên, thân chui qua cột cái.
Hệ thống cửa võng làm theo kiểu chân quỳ dạ cá. Phần trên là rồng chầu mặt trời, phía dưới các ô to nhỏ khác nhau có hình hổ phù, phượng trúc, v.v. Mặt hổ phù đơn giản và phóng khoáng hơn những hổ phù ở Đình Bảng.
Đình Công Đình còn giữ được sắc phong có niên hiệu sớm nhất là Dương Đức 3 (1673).
Miếu Công Đình thờ Nguyễn Nộn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Nộn người làng Phù Đổng, vì bắt được vàng không nộp nên vua sai lính bắt. Nguyễn Nộn trốn, nổi dậy vào cuối đời Lý, tự xưng là “Hoài Đạo Vương”. Khi nhà Lý suy yếu, ông chiếm giữ cả vùng Bắc Giang. Đến thời Trần (1226), quân của ông khá mạnh, hùng cứ cả một vùng. Vua Trần đã phong tước vương và gả công chúa cho ông. Đến năm 1229 thì ông chết ở Phù Ninh.
Miếu Công Đình chỉ có 2 cột trụ xây, đỉnh là 4 chim phượng chụm vào nhau tượng trưng cho tứ phương. Tòa đại đền 5 gian 2 chái, vì kèo “giá chiêng chồng giường”, kẻ hiên và vì ván mê. Hai bức cốn hiên chạm nổi hình cây đào, lựu; bẩy chạm họa tiết trúc mai. Cốn gian giữa chạm kênh bong hình rồng chầu, mắt lồi, răng nhe. Các vì kèo ván mê chạm mặt hổ phù và hình hoa lá hóa rồng. Cửa võng chạm thủng các đề tài mặt hổ phù, rồng, hoa dây, hoa xoắn được sơn son thếp vàng. Đình, miếu còn các di vật khá phong phú như ngai thờ, ngựa thờ, bát bửu… Miếu có sắc phong sớm nhất niên hiệu Dương Đức 3 (1673). Đình – miếu Công Đình là hai di tích khá hiếm còn lại, đã lưu giữ dấu ấn kiến trúc thời hậu Lê rất độc đáo và các mảng chạm khắc phong phú, đa dạng. Đình và miếu Công Đình đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 22/4/1992.