Tâm Kinh Bát Nhã – Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

Tâm Kinh Bát Nhã (般若波羅蜜多心經 – Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh) là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa. Đây là bản kinh ngắn gọn nhưng hàm chứa trí tuệ sâu xa về tánh Không (Śūnyatā), một trong những giáo lý cốt lõi của Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Nội dung chính của Tâm Kinh Bát Nhã

Tâm Kinh được xem là tinh túy của hệ thống kinh điển Bát Nhã, với thông điệp trung tâm là “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” (色即是空,空即是色). Điều này có nghĩa là mọi hiện tượng trong thế gian đều không có tự tánh cố định, chúng là duyên sinh và duyên diệt.

Bài kinh được trình bày dưới dạng một cuộc đối thoại giữa Bồ Tát Quán Tự Tại (Quán Thế Âm) và ngài Xá Lợi Phất, trong đó Bồ Tát giải thích về trí tuệ Bát Nhã và phương pháp quán chiếu để đạt đến giải thoát.

Ý nghĩa của Tâm Kinh Bát Nhã

Bài kinh nhấn mạnh rằng tất cả các pháp đều là Không, và khi nhận thức được chân lý này, con người sẽ không còn chấp trước vào bản ngã, sự vật, hay các khái niệm đối lập như sinh diệt, được mất, sạch dơ… Nhờ đó, hành giả có thể đạt được sự giải thoát và an nhiên tự tại.

Tâm Kinh Bát Nhã là một bài kinh quan trọng và thường được tụng niệm trong các nghi thức Phật giáo, giúp người tu hành quán chiếu và thấu hiểu bản chất thực sự của vạn vật.

Bạn có muốn tôi giải thích sâu hơn về một phần nào đó trong kinh không?

Bài kinh như sau:

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

BÁT NHÃ TÂM KINH

觀自在菩薩,行深波羅蜜多時,照見五蘊皆空,度一切苦厄。

舍利!色不異空,空不異色;色即是空,空即是色,受想行識亦復如是。

舍利!是諸法空生不滅,不垢不淨,減。

是故,空中無色,無受想行識;無眼耳鼻舌身意;無色聲香味觸法;

無眼界,乃至無意識界;無無明,亦無無明盡,乃至無老死,亦無老死盡;

無苦集滅道;無智亦無得。以無所得故,菩提薩埵。

波羅蜜多故,心無罣礙;無罣礙故,無有恐怖,遠離顛倒夢想,究竟涅槃。

三世諸佛,依波羅蜜多故,得阿耨多羅三藐三菩提。

故知:波羅蜜多是大神咒,是大明咒,是無上咒,是無等等咒,能除一切苦,真實虛。

故說波羅蜜多咒,即說咒曰:揭諦揭諦,波羅揭諦,波羅僧揭諦,菩提薩婆訶。

Phiên âm:

Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.
Dịch nghĩa Việt:

Bồ Tát Quán Tự Tại khi hành giải thoát trí tuệ sâu mầu, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, độ tất cả khổ ách.
Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không. Không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Này Xá Lợi Tử! Tướng không của các pháp ấy không sinh, không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Vì vậy, trong không: Không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có mắt cho đến không có thức; không có vô minh, cũng không có hết vô minh; cho đến không có già, không có chết; cũng không có hết già chết; không có khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế; không có trí, cũng không có chứng đắc.

Vì không có cái để chứng đắc. Bồ-tát do nương giải thoát trí tuệ nên tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, đạt đến Niết-bàn rốt ráo. Ba đời các Đức Phật do nương giải thoát trí tuệ nên chứng được Bồ Đề vô thượng.

Cho nên, giải thoát trí tuệ là chú linh mầu lớn, là chú sáng rỡ lớn, là chú không gì hơn, có thể trừ tất cả khổ. Vì chơn thật không hư dối nên nói chú giải thoát trí tuệ. Liền nói chú rằng: “Yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha.”