CHÙA KH’LEANG
1. Giới thiệu chung:
Chùa Kh’Leang ở thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, là một ngôi chùa cổ của người Khơ-me.
Chùa được xây cất từ năm 1533; lúc đầu còn làm bằng gỗ lợp lá, sau mới được xây bằng gạch ngói. Kiến trúc hiện nay là do lần trùng tu cách đây trên 80 năm.
2. Cổng chùa và khuôn viên:
Cổng vào chùa ở bên đường Mậu Thân, số 71, có tô đắp tượng, hoa văn và tháp khá công phu. Khuôn viên chùa rộng độ 3,5 ha, có nhiều cây cối xanh tốt.
Chính điện nằm ở trung tâm. Nền nhà được xây cao hơn mặt đất khoảng 1m và có ba cấp sân, mỗi cấp sân được bao quanh bởi một hàng rào xây bằng gạch. Theo bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi hướng có một cửa ra vào.
Đứng ngoài sân nhìn lên thấy ngôi chính điện rất cao với lối kiến trúc khá phức tạp và độc đáo.
3. Chính điện:
Khung mái làm bằng gỗ quý. Bộ mái gồm ba cấp và mỗi cấp lại chia làm ba nếp. Nếp ở giữa lớn hơn hai nếp phụ ở hai bên. Hai mái trên cùng hợp lại thành một góc 60°. Hai đầu hồi được chạm trổ rất công phu, gọi là “Hồ cheang”. Cách thể hiện các họa tiết đã theo phép đối xứng qua một trụ từ đỉnh tam giác đến cạnh nằm đối diện. Có thể nói, hai đầu hồi là hai khuôn trang trí rất độc đáo và đầy sáng tạo của nghệ nhân Khơ-me. Trên đầu các góc mái chùa đều có đắp một khúc đuôi rắn dài và cong vút.
4. Nội thất chính điện:
Hàng cột phía ngoài chính điện làm theo kiểu Corinthian của Hy Lạp. Ở phía trên, chỗ tiếp giáp đầu cột với đuôi mái ngói, có gắn hình người chim (Krud).
Krud, còn có tên là Garuda, là một loài chim thần và là kẻ thù truyền kiếp của loài rắn. Nó có hình dáng kết hợp giữa người và chim: mình người, sau lưng có đôi cánh, đầu và chân là chim, mỏ ngậm một viên hồng ngọc.
Trong chính điện có 12 cột cao vút, chu vi 1,1m, phủ sơn mài đen bóng và vẽ rồng cá uốn quanh màu vàng lộng lẫy.
Chính điện chiều ngang đo được 9,2m và bề dọc đo được 20,8m. Có một tấm bao lam cao vút tới mái, chạm trổ và sơn then thếp vàng công phu. Một pho tượng Phật lớn được tôn trí ở chính giữa, phía trong cùng. Pho tượng cả bệ cao 6m: bệ cao 1,3m, tòa sen cao 2,5m và đức Phật cao 2,2m.
Sau lưng pho tượng có tấm bia bằng tiếng Khơ-me, đại ý nói: “Đại đức Liêu Đuông, đời truyền thừa thứ 17, đã đứng ra lập tượng Phật vào năm Phật lịch 2460 với sự cúng dường của gia đình ông Lum Sam.”
Ở bàn thờ có trên hai mươi pho tượng Phật nhỏ được chạm khắc theo các tư thế khác nhau.
Các cánh cửa ở chính điện cũng được chạm trổ công phu. Trên khung cửa ra vào có trang trí hình Reahu mặt người dữ tợn, hai tay đang cầm mặt trời hay mặt trăng để nuốt vào bụng. Trên khung các cửa sổ có trang trí hình tượng Phật. Hai cánh cửa ra vào có chạm cảnh tiên nữ giao đấu với chằn. Tiên nữ mặc áo giáp, đầu đội mũ nhọn, đứng trên hình con Reach cha sei. Chằn (Yeak) được thể hiện với hình ảnh một người có gương mặt hung tợn như thú vật, cũng đứng trên con Reach cha sei. Tiên nữ là biểu tượng cái thiện còn chằn là biểu tượng cho cái ác.
Ở hai bên bậc thềm vào chính điện có hai pho tượng chằn (Yeak) đứng cầm chày để bảo vệ ngôi chùa.
5. Các công trình phụ:
Bên cạnh chính điện có một dãy nhà sàn (Sala). Mặt sàn cao hơn mặt đất độ một thước. Sala là nhà hội họp của sư sãi và các phật tử. Gian phòng rất rộng, chung quanh không có vách tường, được dùng để cử hành lễ dâng cơm cho sư sãi và dùng làm nơi hội họp khi có lễ lạc theo phong tục tập quán cổ truyền. Trong khuôn viên chùa có sáu tháp để nhập cốt sư sãi và phật tử.
6. Vai trò hiện nay:
Chùa hiện do Đại đức Tăng Nô trụ trì từ năm 1975. Nếu kể từ Đại đức Thạch Sóc là vị tổ đầu tiên thì đến nay chùa đã trải qua 21 đời truyền thừa.
Chùa Kh’Leang là một ngôi chùa cổ nhất ở thành phố Sóc Trăng. Nếu so với 113 chùa khác trong toàn tỉnh Hậu Giang thì chùa Kh’Leang có vị trí quan trọng hàng đầu.
7. Ý nghĩa:
Chùa Kh’Leang lại là nơi đặt Trường Đào tạo cán bộ Khơ-me cho tỉnh Hậu Giang của Ban Dân tộc Tỉnh ủy. Trong khuôn viên chùa còn có Trường Pô Thi, trước kia là của nhà chùa, nay do Nhà nước quản lý. Lối vào trường Pô Thi cấp I và cấp II ở bên đường Nguyễn Chí Thanh.
Chùa Khơ-me như chùa Kh’Leang là một công trình kiến trúc khá độc đáo, trải qua bao thời đại và tuy đã được trùng kiến nhưng vẫn giữ được những đường nét riêng biệt của một dân tộc.