LÚC SINH THỜI – HÔN NHÂN
Từ thuở xa xưa, cha mẹ đã đóng vai trò quan trọng, quyết định cuộc đời của các đôi lứa. Với những gia đình nền nếp, có gia giáo thì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, và gia đình hai bên phải “môn đăng hộ đối”. Các cụ thường kén vợ cho con dựa theo tiêu chuẩn “công, dung, ngôn, hạnh”.
Khi mọi việc tương đối ổn, gia đình hai bên trai gái quyết định hôn lễ (tức lục lễ) cho hai con. Sách cổ Trung Hoa có câu rằng: “Lục lễ bất bị, trinh nữ bất xuất” – nghĩa là sáu lễ nghi về việc cưới xin, nếu nhà trai không lo liệu chu đáo, thì người trinh nữ không đi về nhà chồng. Thời trước, khi cưới hỏi thường có đủ sáu lễ: nạp thái (chạm ngõ), vấn danh (ăn hỏi), nạp cát (bói được tốt), thỉnh kỳ (định ngày), nạp tệ (đưa lễ cưới) và thân nghinh (đón dâu).
Tuy cổ tục quy định tới sáu lễ, nhưng trên thực tế, người Việt thường thu gọn thành ba lễ: lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới (thân nghinh). Đối với những gia đình nghèo, có khi họ bỏ cả lễ chạm ngõ.
Chạm ngõ (nạp thái)
Sau khi đôi bên trai gái đã được thỏa thuận việc cưới gả, người mối sẽ hẹn ngày với bên nhà gái để đưa người chủ hôn (cha mẹ) bên nhà trai và chú rể, đem lễ vật trầu cau đến nhà gái xin đính ước.
Muốn chạm ngõ phải chọn ngày tốt, tức là ngày âm dương bất tương thì vợ chồng sau này mới tốt lành. Khi đã xác định được ngày tốt, nhà trai sắm một lễ mọn cúng tổ tiên để báo về công việc hệ trọng đối với chàng trai. Nhà nghèo chỉ có bát nước, nén hương; nhà khá giả thì mổ gà, thổi xôi để cúng. Sau đấy, nhà trai sửa một lễ mang sang nhà gái. Đó là một đĩa trầu têm cánh phượng, cau bổ tư bẻ cánh tiên. Nhà giàu thì đưa lễ cả buồng cau, mười mỏ trầu, mứt sen, trà lạng đựng trong mấy quả sơn son thiếp vàng.
Dẫn đầu đoàn người đi ăn hỏi bao giờ cũng gồm bà mối, bà mẹ, bà dì, bà cô của chú rể. Các cô gái chưa chồng ở trong họ thường đội các mâm quả hoặc bưng khay trầu đi trước, sau đó là nam giới và chú rể. Lễ được chia làm hai phần. Phần nhiều được đặt lên bàn thờ và cha của cô dâu sẽ khấn vái tổ tiên về ngày mà con cháu họ sắp lập gia đình. Phần còn lại sẽ đưa về nhà ông cậu của cô gái để lễ gia tiên bên ngoại. Trước khi nhà trai ra về, nhà gái thường sẻ một phần lễ để biếu lại nhà trai, gọi là lại quả.
Ăn hỏi
Đây là một lễ trọng thể có tính cách chính thức trước khi cưới. Người mối đưa cha mẹ nhà trai, chú rể và mấy người họ hàng thân thuộc, đem lễ vật như cau, trầu, chè, mứt hay bánh đến nhà gái, để nhà gái làm lễ cáo gia tiên. Sau đó, nhà gái đem các phẩm vật này ra chia phần cho các bạn hữu và họ hàng thân thuộc để rõ là mình đã quyết định gả con gái và không thay đổi gì nữa. Ở miền Nam, thường có tục nhà trai trình trước hai họ ngay trong lễ ăn hỏi những món sính lễ quan trọng như hoa tai, nhẫn v.v… để được nhà gái chấp nhận và tuyên bố ưng thuận sự hứa hôn.
Lễ ăn hỏi cũng lại phải xem ngày và phải theo đòi hỏi của nhà gái, đủ cau, trà biếu khắp nội ngoại bạn bè. Ở quê, lễ ăn hỏi chỉ cần một, hai chai rượu, cau trầu đủ để biếu. Mỗi phần ba quả, ít thì chia một quả. Những nhà giàu thì bày vẽ mỗi phần biếu một bánh chưng, một bánh dày, một gói nem, một gói trà chừng vài ba ấm, bốn quả cau, bốn lá trầu.
Sau lễ ăn hỏi là việc bái hỷ và chia trầu. Mỗi lễ đem chia gồm một lá trầu, một quả cau, chục hạt mứt sen, một ấm trà. Những thứ này được phong trong giấy hồng, gấp thành hình hộp vuông mỗi chiều khoảng 5–6 cm, cao độ 2 cm. Trên hộp vuông ấy người ta dùng giấy bạc trang kim cắt hình chữ Hỷ dán lên trên.
Trong lễ ăn hỏi, hai họ cũng xem ngày và định ngày cưới cho đôi trẻ. Đây là một ngày hệ trọng của đời người nên xem ngày, giờ rất kỹ lưỡng. Ngày xưa, người ta chọn ngày cưới là ngày bất tương, thiên hỷ, thiên đức, nguyệt đức v.v… Giờ cưới phải luôn luôn là giờ hoàng đạo (xem bảng). Sau lễ ăn hỏi, thông qua bà mối, nhà trai sẽ biết nhà gái thách những gì.
Bảng tính giờ hoàng đạo của người xưa khi chọn ngày đón dâu (ngày Dần hoặc ngày Thân thì giờ hoàng đạo đóng ở các giờ Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Mùi, Tuất).
Sáng sớm, nhà trai làm lễ cáo gia tiên. Sau đó, đoàn dẫn lễ mang đồ lễ sang nhà gái. Đi đầu vẫn là những người mang cau, trầu, bánh, hạt sen, trà ướp; tiếp theo là đồ mặn: nhà nghèo thì xôi, gà; nhà giàu thì xôi, lợn quay. Xong việc dẫn lễ, cả nhà trai và nhà gái đều bắt tay vào việc chuẩn bị cưới.
Dưới đây là cách tính ngày hoàng đạo và hắc đạo của người xưa khi chọn ngày đưa dâu:
Tháng âm lịch | Ngày hoàng đạo (tốt) | Ngày hắc đạo (xấu) |
---|---|---|
Giêng, Bảy | Tý, Sửu, Tỵ, Mùi | Ngọ, Mão, Hợi, Dậu |
Hai, Tám | Dần, Mão, Mùi, Dậu | Thân, Tỵ, Hợi, Sửu |
Ba, Chín | Thân, Tỵ, Dậu, Hợi | Tuất, Mùi, Mão, Sửu |
Tư, Mười | Ngọ, Mùi, Hợi, Sửu | Tý, Dậu, Mão, Tỵ |
Năm, Một | Thân, Dậu, Sửu, Mão | Dần, Hợi, Mùi, Tỵ |
Sáu, Chạp | Tuất, Hợi, Mão, Tỵ | Thìn, Sửu, Mùi, Dậu |
Chọn ngày lành tháng tốt để làm một việc đại sự cưới vợ cho con vì người xưa tin rằng “có kiêng có lành”. Chọn ngày giờ tốt không phải là một sự mê tín mà nhiều khi là sự mong muốn cho con cái gặp điều tốt lành.
Trong Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính khuyên ta không nên tin vào việc xem ngày kén giờ nhưng không bài bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc cách cưới xin; ông khuyên nhưng không ngăn, vì ông thể theo quan niệm nhận thức của từng người. Bên cạnh đó, ông còn thấy đấy là sự mong muốn điều tốt lành, tránh điều rủi ro cho con cháu của các bậc cha mẹ.
Lễ xin dâu
Lễ xin dâu thường rất đơn giản, trước giờ đón dâu, nhà trai có mấy người mang một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ mà đoàn đón dâu sẽ đến để nhà gái chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp. Cơi trầu, be rượu này, nhà gái đệ lên bàn thờ làm lễ cáo tổ tiên biết trước, rồi hạ xuống đón quan khách đi đưa dâu. Đại diện đưa lễ này của nhà trai có thể là mẹ chồng hoặc một người cô, thím trong họ.
Khi đoàn đón dâu đến, thắp hương bàn thờ là một nghi thức lễ gia tiên bên nhà gái trước khi rước dâu. Họ nhà gái mời nhà trai vào nhà; nhà trai cho đặt đồ lễ lên bàn thờ. Các chú phù rể bưng lễ vật đứng dàn hàng ngang trước mặt các cô phù dâu và trao những mâm quà hay quả tráp lễ vật. Các cô này đem lễ vật đặt lên bàn có thứ tự ở trước bàn thờ gia tiên.
Lúc này là lúc nhà gái kiểm điểm lại đồ thách cưới, tuy một phần đã được đưa từ mấy hôm trước để tiện cho nhà gái làm cỗ mời họ hàng. Đồ lễ đủ, nhà gái cho thắp hương để chú rể và cô dâu cùng lễ gia tiên. Không phải ai cũng có thể thắp nén hương trong ngày lễ cưới được. Hương phải do bố (hoặc anh trai, em trai) cô dâu thắp. Nếu là anh trai hay em trai cô dâu thắp hương, nhà trai lại phải tặng một món tiền gọi là tiền thắp hương.
Văn lễ:
“Hôm nay, ngày… tháng… năm… giờ… Gia chủ là… người thôn… xã… huyện… tỉnh… (hoặc ngụ tại số nhà… phường… quận… thành phố…) nước Việt Nam. Có con trai (hoặc con gái) tên là … kết duyên cùng… con gái (hoặc con trai) của ông bà… người thôn… xã… huyện… tỉnh…
Nay thủ tục hôn lễ đã thành. Xin kính dâng lễ vật gồm: hương, đăng, trầu, quả… gọi là theo phong tục nghi lễ thành hôn và hợp cẩn.
Trước linh tọa Ngũ tự gia thần chư tôn linh.
Trước linh vị liệt gia tiên chư chân linh,
xin kính cẩn khẩn cầu:
Phúc tổ di lai, sinh trai có vợ (hoặc nhà gái thì khấn: “sinh gái gả chồng”).
Lễ mọn kính dâng, duyên lành gặp gỡ, giai lão trăm năm, vững bền hai họ.
Nghi thất nghi gia, có con có của.
Cầm sắt giao hòa, trông nhờ phúc tổ.
Cẩn cáo.“
Rước dâu
Thời xưa tại miền quê, ở cùng làng xóm với nhau, người ta thường hay đi rước dâu vào ban đêm. Lúc đi phải chọn giờ tốt, nhất là được giờ hoàng đạo. Có nơi kiêng cữ cẩn thận, cho một người đàn ông dễ tính ra đón ngõ trước để “ra ngõ gặp trai”, cho mọi người và mọi việc được vui vẻ, dễ dàng.
Trong đám rước, thường kén một cụ già hiền lành, vợ chồng song toàn, nhiều con cháu cầm một bó hương hay một đỉnh trầm đi trước, tục gọi là “Tơ hồng”. Kế đến là người dẫn lễ vật như mâm cau, bánh mứt, lợn, rượu… Chú rể thì khăn áo chỉnh tề cùng với những người trong họ đi rước dâu. Tục lệ nhiều nơi mẹ và bố chồng không đi đón dâu. Có nơi chỉ có bố chồng đi đón.
Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn sắp xếp, chỉnh đốn lại thứ tự; đầu tiên là một cụ già cầm hương cùng với một người đội lễ – thường là một cái quả đựng trầu, cau và rượu vào trước. Mâm lễ ấy được đặt lên bàn thờ, cụ già thắp hương vái, nhà gái vái trả lễ rồi một vị đứng đầu họ nhà trai cùng ra đón đoàn xin dâu vào. Lễ này được tiến hành rất nhanh.
Sau đó, cô dâu cùng chú rể đến lạy trước bàn thờ gia tiên, xin tổ tiên chấp nhận cho cô dâu chú rể đem hộp trầu đi mời khắp mọi người trong họ, người bề trên và cao tuổi mời trước. Khi mời, cô dâu phải chủ động mời trước để chú rể biết cách xưng hô. Trước khi ra cửa về nhà chồng, cô gái đến lạy tạ ông bà, cha mẹ. Cha mẹ thường ngồi sẵn ở phía cửa chính, ông bà (nếu có) thì ngồi ở ghế cao hơn. Thông thường, lúc ấy cha mẹ cô gái cho cô dâu một vật gì đó làm kỷ niệm. Dâu và rể còn phải đem lễ đến nhà thờ tổ họ nội và bên họ ngoại của cô dâu để làm lễ.
Khi lễ gia tiên và lễ các nhà thờ xong, chủ hôn bên nhà trai lại nói với chủ hôn bên nhà gái để cho cô dâu chú rể mừng tuổi ông bà cha mẹ vợ. Khi làm lễ mừng, ngày xưa người ta trải chiếu để chú rể phải lễ bốn lễ ba vái, nhưng sau theo lễ của triều nhà Nguyễn, chỉ dùng “hành tam khấu lễ”, nghĩa là ba vái mà thôi. Việc lễ sống ông bà cha mẹ sau này được tục lệ các nơi bãi bỏ.
Khi chàng rể chào mừng ông bà cha mẹ vợ, các vị này có vài lời dạy dỗ, ban cho cả đôi vợ chồng và ban cho chú rể một món tiền mừng, hay một đồ vật gì quý giá. Trong khi ấy, các vị ở trong họ hàng, cũng có mừng tiền cho cô dâu chú rể.
Khi tiệc xong, ông mối và ông chủ hôn nhà trai đứng lên nói với chủ hôn nhà gái là đã đến giờ tốt, xin phép cho được rước dâu. Sau đó, đoàn đón dâu lên đường về nhà trai.
Đến ngõ nhà trai, pháo nổ giòn giã. Thường thường người ta chọn loại pháo tốt, hơ khô, buộc từng hai bánh pháo một với nhau để nổ cho giòn, tránh pháo tịt vì sợ gặp điều không may. Lúc này, mẹ chồng cầm bình vôi lánh mặt đi chỗ khác để cô dâu bước vào nhà. Có cụ già giải thích rằng, ngày xưa bình vôi là biểu hiện của tài sản. Các cụ nội trợ rất kiêng – không bao giờ để bình vôi sứt miệng, thường quệt thêm vôi lên miệng bình vì tin rằng bình vôi càng dày, của cải trong nhà càng nhiều. Mẹ chồng cầm bình đi vì bà muốn nắm quyền hành trong nhà, không cho con dâu được quyền điều hành.
Trước cửa nhà thường đặt một hỏa lò than hồng, cô dâu phải bước qua để đuổi những vía dữ gặp trên đường. Ở các địa phương như Nghệ An, Hà Tĩnh, mẹ chồng có tục ra cất nón cho cô dâu. Cô dâu vào đến cổng, múc nước rửa mặt đựng trong một cái nồi đồng. Sau đó mẹ chồng dắt con dâu vào nhà, đặt quan tiền và cái quạt lên bàn thờ rồi lễ gia tiên: bốn lạy, ba vái.
Lễ xong, cô dâu cùng mẹ chồng bước vào buồng. Trong buồng có sẵn một đôi chiếu mới trải úp vào nhau. Người trải chiếu cho vợ chồng cô dâu phải là người ăn nên làm ra, con đàn cháu đống. Nếu mẹ chồng đủ điều kiện như trên thì mẹ chồng tự trải chiếu, dọn giường cho cô dâu chú rể. Cô dâu nghỉ ngơi một lát, sau đó cầm hộp trầu đi mời khắp trong họ.
Đưa dâu
Khi đưa dâu, nhà gái cũng kén một ông già cầm bó hương hoặc đỉnh trầm đi trước, rồi bà con họ hàng dẫn cô dâu đi sau. Theo tục lệ, thì bao giờ cũng có mấy cô cậu ngang tuổi với cô dâu chú rể đi phù dâu và phù rể.
Khi về đến nhà trai thì ở cửa ngoài đã có hai người cầm khay trầu chực sẵn để đón mời quan khách nhà gái. Bà mẹ chồng đón dâu tại cửa và đưa vào nhà. Người nhà và các cô phù dâu đưa cô dâu vào buồng riêng nghỉ một lát, rồi người nhà lại đưa cô dâu chú rể vào lạy gia tiên, đi lễ các nhà thờ của đôi bên cha mẹ chồng, và làm lễ tế Tơ Hồng. Xong xuôi, cô dâu chú rể vào mừng tuổi ông bà, cha mẹ chồng, chào mừng họ hàng – như đã làm ở bên nhà gái trước đó.
Đến đây là xong lễ nghi về đưa dâu. Có khi nhà trai mời những người họ hàng nhà gái ở lại ăn uống rồi mới ra về. Cũng có khi nhà trai phải tiễn đưa họ nhà gái về tận nhà, những người này sẽ nói cho bố mẹ nhà gái biết rằng việc đưa dâu đã chu đáo cả, rồi mới giải tán.
Khi nhà trai đưa họ hàng nhà gái về xong xuôi rồi, thì mở tiệc ăn mừng.
Lễ tế Tơ Hồng
Vì người ta cho rằng việc vợ chồng là do ông Nguyệt Lão định trước, cho nên phải tạ ơn ông ấy, và cầu ông ấy phù hộ cho sống với nhau trăm năm hạnh phúc.
Sau khi đón dâu về, gia đình chú rể bày hương án ra sân, dùng lễ vật gồm xôi, gà, trầu, rượu. Chủ hôn vào lễ trước, rồi hai vợ chồng vào lễ sau. Thường lệ có đọc văn tế. Văn tế Tơ Hồng mỗi nơi mỗi khác, không có khuôn mẫu bắt buộc, nhưng nội dung là ca tụng công đức ông Tơ bà Nguyệt đã xe mối duyên lành cho đôi trẻ, và cầu mong ông bà phù hộ cho cô dâu chú rể ăn ở với nhau trọn tình trọn nghĩa đến đầu bạc răng long, sinh nhiều con cái đông đúc.
Phong tục này chỉ còn một số gia đình ở nước ta còn giữ, phần đông đại chúng thì bỏ qua. Về mặt tinh thần đạo lý, lễ Tơ Hồng biểu dương đạo nghĩa vợ chồng, là một nghi lễ có ý nghĩa cao quý.
Lời khấn:
B. Hôm nay, ngày… tháng… năm…
Chủ hôn là… người thôn… xã… huyện… tỉnh…
Có con trai (trưởng/thứ) tên là… kết duyên cùng… con gái (trưởng/thứ) của ông bà… người xã… huyện… tỉnh…
Nay thủ tục hôn lễ đã thành, xin kính dâng lễ mọn gồm… gọi là theo phong tục lễ nghi thành hôn.
Trước án thờ Tơ Hồng Nguyệt Lão Thiên Tiên,
Trước linh tọa ngũ tự gia thần chủ tôn linh,
Trước liệt vị gia tiên chủ chân linh.
… Khấn rằng:
Tơ Hồng Nguyệt Lão Thiên Tiên
Rất công rất chính,
Chẳng vị chẳng thiên.
Gương Ngọc kính soi thông thế sự,
Sợi xích thằng giao hết nhân duyên.
Trước theo nhạn cá thông môi, trạch phối hôn nhân tuy rằng phận định;
Nay mừng uyên ương gặp lứa, tác thành gia thất, vốn tự tiên nhiên.
Ngửa trông linh đức,
Chứng giám vi kiền.
Hòa hiếu chung vui hai họ,
Xướng tùy những ước bách niên.
Nhờ ra con có của nên điều lành chỉ từ nay hợp căn.
Mong được duyên ưa phận đẹp, phúc chung từ đội đức Thiên Tiên.
Cẩn cáo.
Sau lễ tế ông Tơ bà Nguyệt, cô dâu chú rể vào phòng riêng. Ông cụ cầm hương dẫn đoàn đón dâu của nhà trai trải chiếu cho cô dâu chú rể. Chiếu phải trải phẳng, kiêng trải lệch. Sau đó, cụ rót hai chén rượu mời cô dâu chú rể uống, rồi ý tứ lui ra ngoài, khép cửa buồng lại. Cô dâu chú rể sẽ ăn cùng nhau bữa cơm đầu tiên.
Tối hôm đó, khi nhập phòng, người chồng lấy khay trầu tế Tơ Hồng, trao một miếng cho vợ, rót một chén rượu, mỗi người uống một nửa, gọi là lễ Hợp cẩn. Thời xưa, vợ lạy chồng hai lạy, chồng đáp lại bằng ba vái để tỏ lòng tương kính.
Tục kiểm tra trinh tiết
Nhiều gia đình phong kiến thời xưa, phỏng theo tục lệ Trung Quốc, đêm tân hôn cho lót giấy bản – gọi là giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì sẽ có mấy giọt máu trên giấy. Nếu không, trong lễ lại mặt, nhà gái sẽ nhận được một cái thủ lợn cắt lỗ tai – ngầm báo rằng nhà trai sẽ trả lại cô dâu vì đã mất trinh.
Lễ lại mặt
Ngay sáng hôm sau ngày cưới, hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ này gọi là lễ lại mặt, có khi sau hai ngày hoặc bốn ngày – nếu ở xa mới về, nên còn gọi là “nhị hỷ” hoặc “tứ hỷ”.
Nhà nghèo thì ba lá trầu, ba quả cau, một nậm rượu. Nhà khá giả thì có thêm mứt sen, bánh kẹo. Nếu nhà chú rể ở xa, sau bốn ngày trở về nhà gái cũng được. Nhà giàu hơn thì có cả lợn quay, xôi gấc làm lễ. Lễ xong trên bàn thờ gia tiên, nhà gái hạ xuống chia biếu cho họ hàng thân thích. Ngày đó, bố mẹ vợ làm một mâm cơm để dâu rể cùng ăn.
Cưới chạy tang
Tục này thường được áp dụng trong những trường hợp bất đắc dĩ. Luật pháp xưa cấm nhà trai và nhà gái khi có tang, kể từ tang cơ niên (tang một năm), không được làm lễ cưới gả. Vì vậy, hai họ có thể tổ chức cưới chạy tang – người mất chưa phát tang, chưa khâm liệm thì họ nhà trai mang lễ sang nhà gái xin cưới.
Đám cưới được tiến hành chớp nhoáng trong vòng một hoặc hai ngày. Có thể không cần chọn ngày tốt, nhưng phải là giờ hoàng đạo. Cô dâu về nhà chồng được mấy tiếng thì gia đình bắt đầu phát tang, và cô dâu cũng sẽ chịu tang. Sau đám cưới chạy tang, cô dâu chú rể không được “quan hệ” với nhau trong vòng 100 ngày.