1. ĐÓN TRẺ SƠ SINH
Trẻ vừa sinh ra, muốn đón về nhà phải chọn người đón. Người đón trẻ mang về nhà phải nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo, sống thoải mái, dễ dãi thì sau này trẻ sẽ thông minh và nhanh nhẹn.
Tục xưa quy định, khi đón trẻ sơ sinh về nhà phải quệt nhọ nồi vào trán trẻ, hoặc mang theo dao, chiếc đũa, tỏ ý rằng con trẻ đã được đánh dấu rõ ràng, ma quỷ không dễ gì bắt đi.
2. ĐỐT VÍA
Người xưa tin rằng, trẻ sơ sinh gặp người vía dữ cũng như gặp vía ma quỷ, con trẻ có thể bị ốm đau. Trẻ sơ sinh đang ở trong buồng mẹ, gặp phải người vía dữ vào thăm, trẻ khóc mãi không thôi nên phải dùng chiếc tơi cũ (loại áo đan bằng lá cọ để đi mưa), chổi cũ, đốt vía cho trẻ, nó sẽ thôi không khóc.
Ngoài việc gặp phải người vía dữ, có thể chạm phải vía ma quỷ, bị bắt mất vía, sinh ra ốm đau. Cần phải trừ, yểm bùa mới khỏi.
3. TỤC LÀM CON NUÔI
Một số trẻ sinh ra gặp tuổi xung khắc với bố mẹ, sống với bố mẹ thường ốm đau quặt quẹo, nên bỏ mẹ đẻ tìm kiếm một người nào đó hợp tuổi con mình để cho làm con nuôi. Thường người ta kiếm những gia đình đông con, để đứa bé dựa vào những đứa kia cho mau lớn.
Thực ra, việc làm con nuôi chỉ mang tính tượng trưng vì cha mẹ đẻ đều chi mọi chi phí cho việc nuôi nấng, có khi còn mướn riêng một vú nuôi cho đứa trẻ đó, giúp mẹ nuôi.
4. CÚNG BÀ MỤ
Người Việt ta quan niệm rằng, đứa bé ra đời được là do mười hai bà mụ đã dày công nặn nên. Vì vậy, theo tục cũ, khi đứa trẻ chào đời được 3 ngày, hoặc đầy tháng tuổi, gia đình tắm rửa cho trẻ, rồi sắm một bữa tiệc gọi là đoàn dư phạn (bữa cơm tròn trặn) để cúng bà mụ.
Tiệc cúng bà mụ có thể làm vào ngày sinh thứ ba hoặc đầy tháng, chẵn trăm ngày hoặc đầy năm tuổi. Đó cũng là dịp cúng cáo gia tiên và mừng đứa trẻ ra đời.
Lễ vật cúng bà mụ gồm: 12 đôi hài, 12 miếng trầu, các thứ bánh trái đủ chia đều cho 12 người để dâng 12 bà mụ.
Văn khấn cúng bà mụ xem ở phần cúng đầy tháng.
5. TRẺ KHÓ NUÔI PHẢI LÀM GÌ?
Trẻ khó nuôi là những trẻ hay đau ốm, bệnh tật quặt quẹo, ăn hay trớ, hay khóc liên miên cả ngày lẫn đêm. Vì chúng sinh vào những giờ không hợp là giờ Quan sát hoặc giờ Kim xà Thất tỏa, nên phải cúng đổi giờ cho chúng.
Ngoài cúng đổi giờ, còn làm một số việc như: bôi nhọ nồi lên trán trẻ để tránh tà ma ám ảnh (đóng dấu). Những đứa trẻ đêm đêm hay khóc gọi là khóc dạ đề, nên phải mượn hàng xóm chiếc cọc chuồng lợn ném xuống gầm giường. Có khi đứa trẻ ngủ li bì, khó thức giấc thì xin vài sợi tóc mai của người khác họ, phẩy vào miệng đứa trẻ cho thức giấc.
Trẻ ăn hay trớ, lấy ngọn lá trầu không hay cọng chiếu dán vào trán trẻ, sẽ thôi trớ. Trẻ bị lồi rốn, mượn người ăn mày cầm gậy chạm vào rốn. Trẻ mắc sài mòn, mang con ra kéo lê xung quanh mồ mả mới, để bỏ bệnh sài lại nơi này.
Đây là những quan niệm của người xưa khi mà trình độ hiểu biết còn thấp. Ngày nay, khoa học phát triển, khi trẻ có biểu hiện đau ốm, bệnh tật cần phải đưa ngay đến các cơ sở y tế để khám chữa kịp thời, tránh những hậu quả đáng tiếc.
6. LÀM CON CỬA PHẬT, THÁNH
Những đứa trẻ khi sinh gặp phải giờ xấu, sơ khó nuôi, người xưa thường làm cúng giải trừ tà ma ám ảnh. Có những cặp hiếm hoi, muộn mằn đường con cái, cũng sợ khó nuôi nên họ làm lễ cho vào chùa làm con cửa Phật, dân gian gọi là “bán khoán”, để tà ma phải kiêng sợ.
Cách làm: Viết tên đứa bé vào tờ khoán, làm lễ đóng dấu son của nhà thờ họ. Đứa trẻ bán vào cửa chùa thì lấy họ Mầu. Nếu bán vào cửa Thánh thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo thì trẻ được mang họ Trần, thay họ của bố đẻ. Tờ khoán làm thành hai bản. Một bản để ở bàn thờ Phật, Thánh, một bản gia đình mang về nhà giữ.
Việc cử hành lễ làm con cửa Phật, cửa Thánh được tiến hành sau khi trẻ sơ sinh được 100 ngày tuổi. Vì quan niệm người xưa cho rằng phải đợi cho đứa bé hết ô uế lúc mới sinh. Khi trẻ lên khoảng 10 tuổi sẽ làm lễ chuộc về. Không được để quá tuổi ở đó.
Văn khấn bán khoán… (giữ nguyên phần văn khấn cổ nếu không yêu cầu chỉnh sửa nội dung nghi lễ).
7. TỤC CHO TRẺ UỐNG TÀN HƯƠNG VỚI NƯỚC CÚNG
Đây là một tập tục phản khoa học, rất có hại cho sức khỏe con người mà người xưa, khi chưa hiểu biết về khoa học, đã làm. Chúng tôi giới thiệu cho bạn đọc để biết và tránh những điều không nên làm.
Người xưa cho rằng, khi trẻ bị ốm, bố mẹ sau khi đã chạy chữa thuốc men không khỏi (thuốc của các lang băm) thì cho là đứa trẻ đã bị Thánh Thần quở phạt hoặc ma quỷ ám ảnh. Do vậy, cần phải cầu cúng, xem bói để biết đứa trẻ bị vị thần nào quở phạt, ma quỷ nào ám ảnh.
Xem bói, thầy bói toán sẽ cho biết nguyên nhân của trẻ đau ốm. Bố mẹ phải đến các đền tạ tội cho trẻ, hoặc xin bùa phép trừ tà ma. Cúng bái xong, người ta cho trẻ uống nước hòa với tàn hương từ lễ cúng, và cũng xin bùa dấu tại các đền điện mang về cho đứa trẻ đeo. Trẻ có đeo bùa, tà ma phải sợ mà xa lánh.
8. ĐẶT TÊN CHO CON
Trẻ mới sinh, người xưa chưa vội đặt tên ngay mà cứ gọi là thằng Cu, thằng Cò (con trai); cái Đĩ, cái Hĩm (con gái). Dụng ý đặt tên xấu để tránh tà ma để ý quấy phá.
Khi đặt tên con, thường dùng những tên có liên quan với tên bố mẹ, anh chị em. Ví dụ: tên cha là Hưng, tên con là Hoàng; chị là Hương thì em là Huyền, Hải, Hà… Những tên này là tên tục.
Con trai đến tuổi ghi vào sổ đinh, thường bỏ tên xấu xí, đặt tên có ý nghĩa. Riêng con gái vẫn giữ tên tục cho đến khi lấy chồng thì được gọi theo tên chồng.
Khi đặt tên chính thức cho con, người ta tuyệt đối tránh tên những vị thần làng mình và làng bên cạnh, tránh tên ông tổ họ nội, họ ngoại và ông tổ những họ trong làng, tránh tên cha mẹ, ông bà của bạn mình, tránh tên vua, chúa. Điều này khác hẳn với quan niệm của người phương Tây, khi yêu quý ai thì có thể đặt tên người ấy cho con mình.
-
Nếu bạn mong con mình “thành Rồng” thì có thể đặt tên là: Bằng Cử, Long Tường, Tạc Bằng, Thế Tân, Nhân Phụng, Tuấn Kiệt, Vi Dân, Định Bang, An Quốc, Diệu Thi…
-
Nếu muốn con sau này trở thành người học uyên bác thì có thể đặt là: Ngạn Bác, Chung Vãn, Chung Thư, Văn Uyên, Văn Lâm, Đoan Học…
-
Nếu muốn con mình trở thành một nhân tài thì có thể đặt là: Sĩ Tuấn, Phong Nghĩa, Bân, Hoa, Anh, Kiệt, Lan, Mai, Huy, Lương, Dao, Phương, Phi…
-
Nếu hy vọng con trở thành người giàu có thì nên đặt là: Phúc, Lộc, Phú, Dư, Thịnh, Bảo, Tài…
-
Nếu mong con khỏe mạnh, trường thọ thì đặt là: Thọ, Niên, Hoa, Linh…
Có hàng nghìn hàng vạn chữ Hán khác nhau với những ý nghĩa vô cùng phong phú. Bố mẹ có thể phát huy khả năng tưởng tượng mới mẻ của mình để đặt cho con một cái tên đẹp.
Tên của mỗi người rất quan trọng. Nó không chỉ dùng để gọi mà còn mang ý nghĩa nhân văn, thẩm mỹ đối với người nghe. Cái tên sẽ theo con người suốt cả cuộc đời. Vì vậy, việc đặt tên cũng cần được chú ý và xem xét cẩn thận.
9. VÀO HỌ
Đứa trẻ đã được đặt tên chính thức, bố mẹ phải chọn ngày lành tháng tốt làm lễ cáo gia tiên để ghi tên con vào gia phả. Sau đó, mang đồ lễ và dẫn đứa bé tới nhà trưởng tộc để ghi tên con vào tộc bạ.
Khi bố mẹ trẻ mang đồ lễ tới, tộc trưởng đặt lễ đó lên bàn thờ họ, làm lễ khấn tổ họ rồi mới ghi tên đứa trẻ vào sổ.
10. CON CẦU TỰ
Cầu tự là một tập tục có từ lâu đời. Đây là một yếu tố tâm lý nhằm giữ ổn định gia đình và hy vọng tương lai tốt đẹp.
Người xưa rất coi trọng con trai. Có con trai không chỉ thêm sức lao động cho gia đình mà còn là để nối dõi tông đường, dòng họ. Gia đình nào không có con trai thì coi như tuyệt tự. Bởi vậy, những cặp vợ chồng không sinh được con trai thường đi cầu tự. Cầu tự tức là đi cầu Thần, Phật xin cho đẻ con trai để thừa tự, nối dõi tông đường.
Các đền, chùa ở nước ta như chùa Hương, Yên Tử… vào các dịp lễ hội, các cặp vợ chồng muộn mằn con hoặc không sinh được con trai thường đến sắm lễ cầu tự.
Sau khi lễ bái thành kính, cầu Trời khấn Phật cho sinh hạ quý tử. Những ai muộn sinh con trai thì xoa tay vào hòn núi Cậu, muốn có con gái thì xoa tay vào núi Cô. Người xưa tin rằng Trời, Phật sẽ cho các cậu, các cô ấy theo người cầu về.
Cho nên khi ra về, người cầu tự phải có phần lễ cho cậu (hoặc cho cô). Phần lễ gồm: quà bánh, bát đũa trên mâm cơm đồ mã và thêm cả suất tiền đi đường, vé tàu xe cho cậu, cô.
Vì vậy, những đứa trẻ cầu tự, dù nghịch ngợm, làm điều sai trái, cha mẹ thường không đánh mắng như những đứa trẻ khác mà chỉ khuyên bảo nhẹ nhàng, vì sợ cô, cậu giận sẽ không ở với nữa.
11. HỐT VÍA
Có những đứa trẻ đột nhiên bị vấp ngã làm mất vía, khiến đứa trẻ trở nên ngớ ngẩn, hay lúc ngủ hay giật mình. Vì vậy, khi đứa trẻ bị ngã, gia đình sẽ “hốt vía” của đứa trẻ trả về cho nó.
-
Cách làm: Dùng 1 quả trứng luộc, cắt làm 7 hoặc 9 miếng (tùy theo con trai hay con gái: gái 7, trai 9), nắm 7 hay 9 nắm cơm nhỏ; mang tới chỗ đứa trẻ bị ngã, hú gọi vía nó, tráo cơm và trứng 7 hoặc 9 lượt. Sau đó mang cơm và trứng đó về cho đứa trẻ bị ngã ăn. Nếu trẻ còn bé chưa nhai cơm được, bố mẹ trẻ nhai mớm cho nó. Người xưa tin rằng, trẻ mất vía sau khi được ăn cơm và trứng này sẽ lấy lại được vía và trở lại bình thường.
12. TỤC ĐÓNG DẤU VÀO ÁO
Người xưa tin rằng, trẻ sinh ra thường bị ma quỷ bám theo ám hại. Vì thế, hàng năm vào các dịp lễ hội ở chùa như Phủ Giầy (Nam Định), chùa Hương, chùa Thầy (Hà Tây), đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (Hải Dương), Yên Tử (Quảng Ninh)… những gia đình có con trẻ đi trẩy hội mang theo vải đến chùa, làm lễ đóng dấu nhà chùa vào vải, mang về may áo cho con. Họ tin rằng, trên áo của con có dấu nhà chùa, tà ma sẽ sợ uy Thần, Phật mà phải xa lánh đứa trẻ, không dám bám theo ám hại. Khi giặt áo có đóng dấu phải giặt riêng.
13. LỄ KHAI TÂM
Gia đình nào có con đi học ngày đầu tiên, phải chọn ngày tốt, sắm lễ, tắm rửa, cắt tóc sạch sẽ, cho trẻ ăn mặc chỉnh tề, rồi làm lễ cáo gia tiên. Sau khi người cha khấn lễ tại bàn thờ thì đứa trẻ cũng phải lạy bốn lạy, ba vái để xin tổ tiên phù hộ cho được thông minh, học hành tiến bộ.
Sau khi lễ ở nhà, người cha ăn mặc chỉnh tề, dẫn đứa bé đến nhà thầy đồ xin nhập học. Có gia đình khi mang trẻ tới đồng thời đội một mâm lễ gồm: trà, rượu, trầu cau, đĩa xôi, con gà… đến lễ. Thầy đồ làm lễ Thánh (Đức Khổng Tử) tại bàn thờ riêng hoặc miếu thờ, rồi cúng cáo với gia tiên việc nhận thêm môn sinh. Sau đó đứa trẻ mới được học bài đầu tiên với thầy đồ.
Ngày nay, trẻ được học ở trường, lớp nên việc học tập không có các nghi thức rườm rà như ngày xưa. Đứa trẻ có một môi trường thuận lợi để hòa nhập, lớn lên và phát triển.
14. NHỮNG ĐIỀU KIÊNG KỴ ĐỐI VỚI TRẺ SƠ SINH
-
Khách đến thăm trẻ không được khen bé đẹp, mập hay nặng cân. Khen như vậy bị coi là quở, làm cho trẻ suy sụp, đau ốm.
-
Không đưa con qua cửa sổ cho người khác bồng bế, sợ sau lớn lên nó sẽ làm nghề trộm cắp.
-
Khi người lạ vào nhà, trẻ khóc liên hồi không nín tức là gặp phải vía dữ của người lạ. Người nhà phải “đốt vía” bằng cách lén ném đóm cháy trước mặt người lạ, hoặc khi người lạ đi rồi thì khua đóm bên cạnh trẻ.
-
Nếu trẻ khóc liên miên và dữ dội, người xưa cho là “đau bão”, phải mượn người nhỏ bão trên đầu người mẹ của trẻ, khi đang ôm con ép vào bụng, tức là giật những sợi tóc quấn lại với nhau thành từng mớ trên đầu người mẹ.
-
Mỗi khi con hắt hơi thì chúc “sống lâu trăm tuổi” để cầu phúc cho con sống khỏe mạnh, chóng lớn.
-
Con lớn chậm, yếu ớt, thì bế nó chui qua áo quan người già bậc thượng thọ lúc đưa đám.