Đền Bà Kiệu nằm ở bờ Hồ Hoàn Kiếm, trước thuộc phường Đông Các, nay ở phố Đinh Tiên Hoàng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền có tên chữ Hán là “Thiên Tiên điện” hoặc đền Huyền Chân. Sách “Thăng Long cổ tích khảo” cho biết đền được xây dựng vào niên hiệu Vĩnh Tộ (1619-1628). Đến cuối niên hiệu Cảnh Hưng, một vị quan ở Lê phiên thuộc phủ Chúa đã lấy vườn ao, đất nhà mình ở cạnh đền cung cấp chi phí cho việc đèn nhang. Sau đó, ông chuyển giao cho những người thuộc huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương là Lê Trọng Hiến, Lê Trọng Sinh và Hoàng Thị Bò trông nom thờ cúng. Đền có tên gọi là đền Bà Kiệu. Ông Lê Trọng Sinh bỏ tiền ra xây dựng thêm tam quan. Đến thời Tây Sơn, đền lại được tu sửa và đúc quả chuông đồng vào năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thịnh (1800). Đến giữa thế kỷ 19, vào năm Tự Đức thứ sáu, mùa thu Quý Hợi, đền lại được sửa chữa lần nữa. Đến năm Thành Thái thứ 2, thực dân Pháp mở đường, đền bị dỡ bỏ mất phần điện trước.
Đền thờ 3 vị nữ thần là Liễu Hạnh công chúa, đệ nhị ngọc nữ Quỳnh Hoa và đệ tam ngọc nữ Quế Nương.
Hiện nay di tích còn tam quan, đại bái, phương đình và hậu cung. Kiến trúc hiện nay mang phong cách triều Nguyễn. Các bộ phận kiến trúc được chạm khắc đẹp. Đền còn giữ được các hiện vật khám thờ, cửa võng, hương án, long ngai, bài vị, tượng, giá văn, chuông và các sắc phong và đồ lỗ bộ.
Cùng với đền Ngọc Sơn và quần thể kiến trúc quanh Hồ Hoàn Kiếm, đền góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp cảnh quan và lịch sử khu Hồ Hoàn Kiếm.
Đền Bà Kiệu đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử nghệ thuật ngày 2.5.1994.