Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý là chứng tích lịch sử về làng Cổ Pháp xưa và làng Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay; là đất phát tích, tôn miếu thờ các vị vua triều Lý và là nơi an táng các vị tiên vương và hoàng tộc nhà Lý. Triều Lý (1009-1225), từ khi Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (1010), trải qua tám đời vua, truyền ngôi được 216 năm, là giai đoạn nhà nước phong kiến độc lập tự chủ, vững mạnh, nhân dân được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị.
Khu di tích là công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật điêu khắc đá, điêu khắc gỗ, tạc tượng thờ, kỹ thuật xây dựng đều đạt đến mức tinh xảo. Di tích có nhiều tên gọi khác nhau như: Đền Đô, Cổ Pháp Điện/Đền thờ Lý Bát Đế và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý (Thọ lăng Thiên Đức hay Sơn lăng cấm địa); bao gồm hai khu vực chính là: Đền Đô và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa).
- Đền Đô: có tổng diện tích là 31.250m², được phân chia thành khu nội thành và ngoại thành.
Khu ngoại thành có diện tích 26.910m², gồm các hạng mục: hồ bán nguyệt, nhà thủy đình, nhà văn chỉ bên phải, nhà võ chỉ bên trái.
- Nhà văn chỉ và võ chỉ: có kiến trúc hình chữ Công, với các công trình tiền đường, ống muống và hậu đường. Nhà văn chỉ và võ chỉ được xây dựng trong khuôn viên hình chữ nhật, đối xứng nhau qua trục chính của đền, giữa nội thành và ngoại thành.
- Nhà thủy đình: ba gian hình vuông, xây nổi trên hồ bán nguyệt, kiến trúc chồng diêm hai tầng tám mái, tám đao cong và làm theo kiểu tàu đao mái góc. Móng nhà xây bằng đá cao 0,8m và có cột đỡ đao, kết cấu bốn hàng chân cột, toàn bộ nhà bằng gỗ lim vững chắc.
Khu nội thành có diện tích 4.340m², được chia thành khu nội thất và ngoại thất. Nội thất gồm: hậu cung, nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, nhà bia và nhà để tám kiệu thờ, nhà để tám ngựa thờ ở hai bên. Ngoại thất gồm: phương đình, đền Vua Bà, nhà chủ tế, nhà khách, nhà trưng bày, hội trường, ngũ long môn, sân đền, tượng voi, sấu đá,…
- Ngũ long môn: còn gọi là năm cửa rồng, có diện tích 60m², gồm ba gian có kết cấu đặc biệt, làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài. Cánh cổng gian chính giữa chạm rồng cuốn, phía trên xà nóc chạm rồng mây, giữa đắp nổi hình rồng. Hai bên cổng chính có đặt hai pho tượng đá (còn gọi là cấm vệ quân). Ở bậc tam cấp có hai đôi rồng và mây đá, đặt trên tảng đá xanh. Bên trên Ngũ long môn treo bức hoành phi “Lý Triều Bát Đế”. Qua Ngũ long môn là sân rồng, phía bên phải cổng có miếu thờ thổ thần và giếng ngọc.
- Phương đình: làm bằng hệ thống gỗ lim vững chắc, kết cấu bốn hàng chân cột bằng đá xanh. Phương đình treo hai bức hoành phi đề “Bát Diệp Trùng Quang” và “Tham Tán Thiên Địa”, có hương án bày các đồ thờ tự, hai bên hương án là tượng hai tướng Đá Rãi (hai anh em sinh đôi Lý Hải và Lý Khoáng) có công cùng vua đi dẹp loạn.
- Nhà tiền tế: khung nhà làm bằng gỗ lim, kết cấu bộ vì theo kiểu chồng rường con nhị, thượng tam hạ tứ, kẻ chuyền hai bên. Các bộ vì kèo được liên kết dọc với nhau bởi hệ thống xà thượng và xà hạ. Các cột được tạo tác theo kiểu thức “cột đòng đòng”, đứng trên các chân tảng bằng đá xanh. Gian giữa bày hương án, hai bên đặt tượng cấm vệ quân triều Lý (áo đen), gần cửa ra vào có ngựa hồng và ngựa bạch. Bên phải có bức hoành phi đề “Cổ Pháp Triệu Cơ” và bức cuốn thư “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ. Bên trái treo cuốn thư khắc bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.
- Nhà chuyên bồng: có kiến trúc kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái. Bộ vì kết cấu lòng thuyền thượng tam hạ tứ, kẻ truyền hai bên. Mái lợp ngói mũi hài, các tàu mái ở bốn góc được uốn cong và chụm lại tạo thành hình đầu rồng.
- Hậu cung: kiểu nhà bình đầu, hai bên phía trước có cột trụ lồng đèn cánh phong đắp văn triện, đỉnh đắp trái dành, đường nét mềm mại, uyển chuyển. Bộ khung bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc, bờ chảy lắp hộp rỗng hoa chanh, đỉnh nóc đắp nổi ba chữ Hán “Cổ Pháp điện”. Hậu cung là nơi đặt bài vị, tượng của tám vị tiên vương triều Lý.
- Nhà bia (bên trái): kiến trúc hai tầng tám mái, cửa hình vòm, bên trong là tấm bia “Cổ Pháp điện tạo bi”. Bia có kích thước khá lớn: cao 1,9m, rộng 1,3m, dày 0,17m. Trán bia trang trí hình lưỡng long chầu nguyệt.
Nhà bia (bên phải) có kiến trúc tương tự, bên trong có “Bia trùng tu đền Đô” cao 2m, rộng 1m.
- Khu lăng mộ các vị vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa)
Khu lăng mộ là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều Lý, cách đền Đô khoảng 800m về phía đông bắc, nằm ở khu Ao Sen, thuộc cánh đồng phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn. Ngày nay, Khu lăng mộ các vị vua nhà Lý bao gồm những công trình sau: Lăng vua Lý Thái Tổ (lăng Lòng Chảo); Lăng Cả (thờ vua Lý Thái Tông); Lăng Hai (còn gọi là lăng Con) thờ vua Lý Thánh Tông; Lăng Con Voi (thờ vua Lý Nhân Tông); Lăng Đường Gio (thờ vua Lý Thần Tông); Lăng Đường Thuấn (thờ vua Lý Anh Tông); Lăng vua Lý Cao Tông; Lăng vua Lý Huệ Tông; Lăng bà Nguyên Phi Ỷ Lan; Lăng Phát Tích (lăng Bà Phạm Thị).
Hiện vật ở di tích đền Đô và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn lại không nhiều, có thể kể đến như tám bài vị các vua Lý được sơn son thiếp vàng, chạm khắc vào thời Lê; đỉnh đồng; hạc đồng và một số bát đĩa có niên đại thời Lê. Đặc biệt còn có một bia đá cao 1,82m, rộng 1,03m, dày 0,175m, trên chạm khắc hình rồng chầu mặt nguyệt tinh xảo, ghi niên đại 1604 do Tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn, ghi công đức các vua Lý.
Ngoài ra, Khu di tích còn bảo tồn và duy trì được nhiều sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian truyền thống và tập tục thờ các vị vua triều Lý. Hằng năm, ở Đình Bảng diễn ra ba lễ hội chính:
- Hội chùa vào ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch hằng năm, nhằm ngày giỗ bà Phạm Thị, mẫu thân của vua Lý Công Uẩn.
- Hội làng vào ngày mồng 10 tháng Tư âm lịch, là ngày hội lớn nhất, gắn liền với các nghi lễ tế bái, dâng hương các vua triều Lý, thể hiện lòng tôn kính với các vị vua.
- Lễ hội lên đền vào tháng Ba âm lịch hằng năm, mời các triều thần nhà Lý, bày tỏ lòng thành kính.
Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý đã được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 1992