Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh)

Chùa Bút Tháp còn có các tên gọi khác là chùa Ninh Phúc hay Ninh Phúc tự, Ninh Phúc thiền tự, chùa Thiếu Lâm; thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong những ngôi chùa có niên đại cổ nhất ở nước ta.

Chùa được xây dựng từ rất sớm, dưới thời Trần, Thiền sư Huyền Quang đã cho tu sửa chùa và trụ trì tại đây. Chùa từng là nơi trụ trì của Thiền sư Chuyết Chuyết – tổ thứ 34 của Thiền phái Lâm Tế, một Thiền phái chịu ảnh hưởng nhiều của Phật phái Trúc Lâm thời Trần. Vào khoảng những năm 1642-1674, chùa được các quý tộc triều Lê cho dựng lại với quy mô rất lớn, theo kiểu “trăm gian” và có mặt bằng kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc. Kiến trúc hiện nay chủ yếu vẫn là kiến trúc của thế kỷ XVII.

Chùa tọa lạc trên khu đất cao, rộng, bằng phẳng, sát bờ nam sông Đuống. Theo truyền tích của địa phương, chùa nằm trên thế đất tốt, tựa hình một bông sen lớn và có ý nghĩa về phong thủy. Các đơn nguyên kiến trúc của chùa dàn trải trên mặt bằng, gồm: Tam quan, Gác chuông, Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, Tích Thiện am, Nhà trung, Phủ thờ, Hậu đường nằm trên trục chính; hai dãy hành lang dài bao lấy các công trình kiến trúc chính, tạo thành một khuôn viên tương đối khép kín.

  • Tam quan: gồm ba gian, dài 9m, rộng 5,25m với bốn bộ vì chồng rường, tỳ lực lên ba hàng chân cột, mái lợp ngói mũi. Các cấu kiện chủ yếu được làm bằng gỗ, bào trơn, đóng bén. Bốn góc của tam quan đều bổ trụ vuông, có đỉnh kết hình đèn lồng. Hai bên hồi xây bít bằng gạch, ở giữa trổ cửa sổ hình chữ Thọ và hình vòng tròn sắc không. Kiến trúc này đã được trùng tu vào thời Nguyễn.
  • Gác chuông: có mặt bằng gần vuông, với kết cấu gỗ chồng diêm, gồm hai tầng, tám mái, lợp ngói. Tầng trên gác chuông kết cấu bộ vì theo kiểu “giá chiêng đê thông khoảng giữa”. Trên tầng treo quả chuông lớn khắc dòng chữ “Ninh Phúc tự chung”, cao 152cm, đường kính miệng là 71cm. Quai chuông là hình hai con rồng đấu lưng vào nhau. Chuông có bốn núm đánh hình tròn nổi, phía dưới núm ghi tên bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông…
  • Tiền đường: gồm năm gian, hai chái, dài 25m, rộng 10,6m, kết cấu gỗ, mái lợp ngói ta. Phía trước bao bằng hệ thống cửa bức bàn, hai bên là hệ thống ván bưng. Phía sau Tiền đường, ba gian giữa để trống, hai gian bên trang trí hệ thống ván trổ thủng, với hoa văn hình chữ Vạn. Hệ mái tỳ lực chủ yếu lên bốn hàng chân cột, các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu giá chiêng, liên kết bằng hệ thống xà. Hai đầu hồi làm bốn “cốn đốc” theo kiểu chồng rường (thay cho kẻ). Liên kết với những cốn đốc đó là bốn chiếc bẩy chạm rồng, hoa lá. Nghệ thuật chạm khắc tập trung tại các đầu bẩy hiên và những ván bưng, mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII. Các đầu bẩy đều chạm nổi hình rồng và hoa lá cách điệu. Dọc ngưỡng cửa của năm gian được chạm nổi đề tài tứ quý như: sen dây, cúc dây,…
  • Thiêu hương: nối liền Tiền đường với Thượng điện, có mặt nền cao hơn mặt nền của Tiền đường, bốn phía để trống. Bộ khung dựa trên bốn cột, các vì kèo kết cấu theo kiểu “chồng rường”, được liên kết với nhau bởi xà thượng và xà hạ. Khoảng cách giữa hai xà ở hai bên được nong ván, có chạm rồng, phượng, hoa. Phía trước tòa Thiêu hương có bức đại tự “Đại hùng bảo điện” do vua ban năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Dương Hòa 8 (1642).
  • Thượng điện: có nền cao hơn Thiêu hương và Tiền đường một bậc, gồm năm gian với chiều dài 19m, rộng 10,6m, khung bằng gỗ lim với 24 cột lớn. Về cơ bản, kiến trúc tòa Thượng điện có kết cấu giống Tiền đường. Các vì kèo cũng có kết cấu kiểu giá chiêng và có cốn đốc chồng rường. Với việc xuất hiện cốn góc, trong cấu trúc của Thượng điện đã không cần đến kẻ góc, làm cho cấu trúc ngoài hiên có một dạng đặc biệt. Nền Thượng điện được bó bốn lớp đá khối hình chữ nhật. Bao quanh Thượng điện cả bốn mặt đều là hành lang với một hàng lan can đá là các điển tích cổ được chạm khắc rất tinh xảo như: “Phượng vũ kỳ lân”, “Song ngư hý nguyệt”, “Cô lộ sơn lộc”, “Tam dương triều nguyệt”, “Tứ linh, tứ quý”, “Lý ngư hóa long”, “Tùng trúc đông thiên”,…
  • Tích Thiện am: là kiến trúc đặc biệt nhất của chùa Bút Tháp. Tòa này được kết cấu theo kiểu chồng diêm, với hàng cột ở giữa cao, to, chạy suốt từ tầng 1 lên tầng 3, các vì kèo được làm theo kiểu chồng rường, những đầu đao của ba tầng mái cong vút. Tầng 1 gồm năm gian, kết cấu các vì kèo kiểu giá chiêng đơn giản. Tầng 2 thu lại còn ba gian, với bốn hàng chân cột. Tầng 3 thu lại còn một gian, kết cấu khung dựa chủ yếu trên bốn cột cái và bốn cột trốn nhỏ, bộ vì kiểu giá chiêng. Ở bốn góc mái của tầng 3 có bốn thanh ruỗi, chống bốn kẻ góc, ăn chân vào các cột cái. Tất cả các thanh ruỗi này đều chạm hình rồng, mây cuộn, người và thú. Dựa vào kết cấu kiến trúc và hoa văn trang trí, có thể thấy, tòa này được dựng vào thế kỷ XVIII và đã được tu sửa vào thế kỷ XIX. Trong Tích Thiện am ở gian giữa đặt Cối kinh – “Cửu phẩm liên hoa” hình bát giác, cao 7,8m, xếp chín tầng theo kiểu tòa sen, thể hiện chín kiếp tu của đức Thích Ca Mâu Ni. Chín tầng Cối kinh tạc hàng trăm tượng Phật, hoa lá, chim muông, tập trung chủ đề khuyến thiện trừ ác, giới thiệu hành trang các vị tổ Thiền tông, các đại sư, các cấp độ thăng hoa trên đường lên cõi Niết Bàn. Tòa Cửu phẩm liên hoa là tháp gỗ tám mặt, chín tầng, được đỡ bởi các hàng chấn song con tiện. Tám mặt của chín tầng có gắn phù điêu gắn với Phật giáo.
  • Nhà trung: gồm năm gian, dài 16,3m, rộng 8,6m, kết cấu mái theo kiểu “tàu đao lá mái”, bốn hàng chân cột, các bộ vì kết cấu theo kiểu giá chiêng. Hiện tại, xung quanh tòa này đã được xây tường bao. Ba gian chính mở cửa bức bàn, cửa sổ chấn song con tiện, một số bộ phận kiến trúc có chạm khắc, mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII.
  • Phủ thờ: gồm năm gian, dài 16,5m, rộng 9m, có kết cấu kiến trúc cơ bản giống Nhà trung, nhưng ở góc tòa nhà này, người ta làm kẻ suốt chạy từ đầu cột trốn đến đầu cột quân ra ngoài, hai kẻ góc trong tòa này mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.
  • Hậu đường: gồm 13 gian, kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi. Trong đó, bảy gian thờ Mẫu, ở giữa thờ Mẫu Thượng ngàn, hai gian ở hai bên thờ các ngọc hoàng, ngọc nương, Thượng đế, một gian thờ bà Tổ. Bốn gian còn lại là nhà bếp, nhà khách, bếp thờ, nhà kho