Khởi nghĩa Yên Thế là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất và kéo dài nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đề Nắm là một trong những tướng lĩnh đầu tiên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) xuất hiện với vai trò là thủ lĩnh tiếp theo, đã đưa cuộc khởi nghĩa lên tầm cao và quy mô lớn. Chính giới Pháp cũng phải thừa nhận rằng: “Mỗi thế kỷ chỉ xuất hiện một lần mà thôi.”
Di tích lịch sử Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế liên quan đến cuộc khởi nghĩa được phân bố trên một địa bàn rộng lớn, thuộc bốn huyện liền kề nhau: Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên và Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Những địa điểm này bao gồm các công trình kiến trúc cổ có liên quan đến hoạt động của nghĩa quân (đình, chùa, đền, miếu) có niên đại khởi dựng vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn, từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, cùng với các địa điểm, đồn lũy liên hoàn của nghĩa quân. Tiêu biểu là 8 ngôi đình, 7 ngôi chùa, 6 ngôi đền, 3 đồn, 1 điếm, 1 nghè, 1 động và 5 địa điểm khác. Trong số đó, có 23 điểm di tích đã được xếp hạng di tích quốc gia, phản ánh sinh động quá trình xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu của nghĩa quân từ những ngày đầu tiên cho đến những ngày cuối cùng. Các di tích tiêu biểu như đình Dĩnh Thép, chùa Lèo, đền Thề, khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám,…
- Đình Dĩnh Thép: Là nơi diễn ra hội nghị ghi dấu thời điểm củng cố lại tổ chức của nghĩa quân vào năm 1888, sau những thất bại ban đầu. Đây cũng là nơi Hoàng Hoa Thám đã lui tới trong những năm tháng cuối đời.
- Chùa Lèo: Là địa điểm liên lạc và đón tiếp khách của nghĩa quân. Trong thời kỳ hòa hoãn lần thứ hai (1897-1909), chùa Lèo giữ vai trò là vị trí tiền tiêu, quan sát các bước xâm nhập của thực dân Pháp vào đồn Phồn Xương; được Đề Thám tu bổ và trở thành trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của nghĩa quân cùng nhân dân địa phương.
- Đền Thề: Là nơi tổ chức hội thề của nghĩa quân. Lễ Cầu may vào rằm tháng Giêng chính là dịp Đề Thám thăm viếng các thân nhân và tứ sĩ của nghĩa quân.
- Đồn Hố Chuối: Là căn cứ lớn, nơi phòng thủ kiên cố, tập trung nhiều nghĩa quân và có vai trò quan trọng nhất trong cuộc khởi nghĩa; là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt giữa nghĩa quân và quân Pháp.
- Chùa Thông: Ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn với cuộc khởi nghĩa; là nơi ký hiệp ước điều đình giữa nghĩa quân và thực dân Pháp. Lễ hội chùa được tổ chức hàng năm vào ngày 15 và 16 tháng 3 dương lịch.
- Đồn Phồn Xương (đồi Gồ, đồi Cụ): Xây dựng năm 1896. Phía sau đồn là doanh trại và chiến lũy của nghĩa quân. Đề Thám đã cho xây dựng một bát quái trận với nhiều đồn lũy thông nhau; là nơi trấn giữ con đường độc đạo vào căn cứ, cũng là đại bản doanh và nơi giao dịch của nghĩa quân với khách.
- Đồn Hom: Xây dựng năm 1891; có bốn đồn được xây dựng trên bốn ngọn núi hiểm trở trong dãy núi Cai Kinh bao bọc khu Đồng Khách. Đồn Hom là căn cứ an toàn của cuộc khởi nghĩa. Tại đây đã diễn ra hai trận chiến đấu nổi tiếng vào tháng 3-1892 và tháng 2-1909, đặc biệt là chiến thắng của nghĩa quân vào ngày 25-3-1892.
- Động Thiên Thai: Là một trong Thất diệu đồn do Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (1875-1929) lập ra. Thất diệu đồn điền được bố trí tựa như bảy ngôi sao sáng của chòm sao Bắc Đẩu, gồm bảy khu (hay bảy trại): nhất, nhì, ba, tư, năm, sáu và khu động Thiên Thai.
- Đền Cầu Khoai (đền Cô): Là căn cứ được xây dựng năm 1524; thờ hai người con gái của Đàm Thuận Huy (vị quan thanh liêm, chính trực thời Lê Thánh Tông, người có nhiều công lao với nhân dân trong vùng) là bà Đàm Thị Dung Hoa và bà Đàm Thị Quế Hoa. Lễ hội đền được tổ chức vào ngày 23 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
- Đình Đông: Là nơi Hoàng Hoa Thám cùng hơn 400 binh sĩ làm lễ tế cờ xuất trận; được xây dựng từ thời Hậu Lê; thờ Trương Hống và Trương Hát; còn giữ được nhiều tài liệu, hiện vật cổ quý giá như: các bức hoành phi, đại tự, câu đối, hương án, bài vị, hòm đựng sắc và một số đồ thờ bằng gỗ khác.
- Chùa Kem (Sùng Nham tự): Là nơi Đề Thám cùng nghĩa quân đã về đóng quân và đắp lũy, làm tường thành, làm nhà, luyện tập quân sự. Dấu tích còn lưu lại là: tường lũy, nền nhà quan, giếng quan, trạm gác và cột cờ. Chùa còn là nơi để chiêu binh đánh Tây, cất dấu lương thực, vũ khí và hội họp.
- Khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám (gồm có đình, đền, chùa, điếm, cố trạch và phần mộ người thân của Hoàng Hoa Thám): Đình làng Trũng thờ Thánh Cao Sơn và Quý Minh Đại vương. Sau khi Đề Thám mất, nhân dân địa phương đã thờ ông ở trong đình cùng với Thành Hoàng làng. Đình nay chỉ còn lại nền móng; Chùa làng Trũng xưa được xây dựng ở phía sau đình. Sau khi Hoàng Hoa Thám mất, đình Trũng bị hư hỏng, nhân dân địa phương đã đưa ông vào phối thờ trong chùa; Đền thờ Hoàng Hoa Thám là nơi thờ phụng và tưởng niệm Đề Thám; Điếm làng Trũng là nơi nhân dân làng Trũng thờ hai ông sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế thất bại. Nhân dân địa phương đã đúc tượng chân dung hai vị để thờ; Nơi ở của danh nhân Hoàng Hoa Thám thời niên thiếu là nơi Đề Thám sống thuở nhỏ và lui về trong giai đoạn khởi nghĩa; Khu phần mộ thân tộc của Hoàng Hoa Thám được xây dựng phía trước chùa, cạnh đền.
- Cụm di tích Cầu Vồng (đình, chùa, đền, nghè Vồng): được xây dựng từ thời Hậu Lê, tu sửa nhiều lần vào thời Nguyễn và sau này. Nghĩa quân tế cờ tại đây trong mỗi lần xuất quân.
- Đình, chùa Hả: Được xây dựng từ thời Hậu Lê. Đình Hả (đình Phúc Thọ) thờ Thành Hoàng làng Cao Sơn – Quý Minh và Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm). Ngày 16-3-1884, Đề Nắm đã làm lễ tế cờ, chính thức phát động cuộc khởi nghĩa; lễ hội tưởng nhớ ông được tổ chức vào ngày 15 và 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
- Đình Dương Lâm: Là một ngôi đình cổ, được xây dựng từ thời Hậu Lê; thờ Thánh Cao và ba vị Quận công: Dương Đình Bột, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Cúc; là nơi tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng của nghĩa quân.
- Đình Cao Thượng: Được xây dựng vào thế kỷ XVII, thờ Cao Sơn – Quý Minh. Đề Thám đã cho lập căn cứ trên núi Yên Ngựa (khu vực đình Cao Thượng) và thường tổ chức hội họp, lui tới đình. Hội Đình được mở từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
- Đình Nội (Tiên đình): Là ngôi đình to, đẹp nổi tiếng, được xây dựng từ thời Hậu Lê. Tại đây có lễ tế cờ trước khi xuất quân và cũng là nơi tổ chức nhiều cuộc họp của nghĩa quân.