Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.
Tín chủ (chúng) con là:
Ngụ tại:
Hôm nay là ngày Rằm tháng Giêng năm… gặp tiết Nguyên Tiêu, tín chủ con lòng thành, sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, dâng lên trước án.
Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành Hoàng, chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin các ngài linh thiêng nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ nghe lời khẩn cầu kính mời của con cháu, giáng về chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời Ông bà Tiền chủ, Hậu chủ tại gia hưởng lễ vật, chứng giám lòng thành phù hộ độ trì cho gia chung chúng con được vạn sự tôn lành, bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng an bình.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Lễ dâng sao giải hạn vào ngày Tết Nguyên Tiêu
Lý do thờ Nhật thần, Nguyệt thần và Thần sao có thể bắt nguồn từ sự sùng bái tự nhiên của nền văn hóa cổ đại đối với mặt trời, mặt trăng và các vì sao.
Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần trong tôn thần của Đạo giáo, hàm nghĩa của nó là:
Nhật là thần đại minh: Là biểu tượng của con trai, được trang sức bằng mặt trời màu vàng, Đạo giáo gọi là Nhật cung thái dương để quân hiếu đạo tiên vương hoặc là Nhật cung thái đan viêm quang uất minh thái dương đế quân.
Nguyệt là thần dạ minh: Là biểu tượng của con gái, được trang sức bằng ánh trăng màu trắng. Đạo giáo gọi là Nguyệt cung thái âm hoàng quân hiếu đạo minh vương hoặc là Nguyệt cung hoàng hoa tố diệu nguyên tinh thánh hậu thái âm nguyên quân.
Ngũ tinh xưa: Là uế tinh (tức mộc tinh), chấn tinh (tức thổ tinh), thái bạch tinh (kim tinh), thủy tinh hoặc hỏa tinh. Ngũ tinh còn gọi là ngũ diệu, cùng với mặt trời, mặt trăng hợp thành thất diệu. Nếu thêm La hầu (thực tinh) và Kế đô (Báo vĩ tinh) hợp thành cửu diệu. Nếu không tính Nhật, Nguyệt, mà lại thêm Nguyệt bội và Tử khí thì cũng có thể gọi là cửu diệu. Nếu tính cả thảy thì gọi là thập nhất diệu. Trong kinh điển của Đạo giáo thường gọi là đế quân, nguyên quân, chân quân…
Trong số các vì sao tế này, có vì sao đã sớm đi vào lòng người trong tín ngưỡng của dân gian là Tây Phương thái bạch tinh (tức kim tinh). Đây vốn là hành tinh trong thiên thể (là một hành tinh gần trái đất nhất), buổi sớm xuất hiện ở phương Đông gọi là “khải minh”, buổi chiều xuất hiện ở phương Tây gọi là “Trường canh”, điều này người ta đã biết từ rất sớm.
Cùng với sự xuất hiện của “Tây du ký”, Thái bạch kim tinh là một tinh thể tự nhiên được nhân cách hóa. Trong “Tây du ký”, Thái bạch kim tinh là một hình tượng thần tiên cao niên lương thiện và nhân từ, trên lưng cõng một góc “sách trời”, lão Thái Long cung chức vụ là khâm phái “đặc sứ” của Ngọc Hoàng đại đế. Sau khi Tôn Đại Thánh đắc đạo thành tiên, làm náo động long cung, đánh xuống địa phủ, làm cho Long vương, Diêm vương phải tâu với thiên đình, Ngọc Hoàng vô cùng hoảng sợ, định phái thiên binh thiên tướng đi chiêu an “Myêu hầu” của Tôn Đại Thánh. Ngọc Đế nghe xong vô cùng mừng rỡ, bèn ra lệnh cho Thái bạch kim tinh đi trước để chiêu an. Nhân vật này được mọi người ca tụng.
Về vấn đề tế sao, trong Đạo giáo vẫn tôn sùng ngũ đẩu tinh quân là: Bắc đẩu, Nam đẩu, Đông đẩu, Tây đẩu, Trung đẩu và Tử vi viên chúng tinh quân, Thiên thị viên chúng tinh quân, Tử vi ngoại tọa chúng tinh quân, Bắc cực tứ tưởng tinh quân, Nhị thập bát tú tinh quân… Trên thế gian còn có thuyết quần tinh chầu Bắc đẩu, Đạo giáo thừa nhận tín ngưỡng này, trong Đạo kinh nói: Bắc đẩu rơi xuống là chết, Nam đẩu bay lên là sống, Đông đẩu là chúa âm phủ, Tây đẩu ghi tên. Trung đẩu lớn nhất nên giám sát toàn bộ các vì sao. Con người biết tế sao sẽ được giải thoát tai họa, tăng thêm phúc thọ.
Trong các vì sao, vì sao được tôn sùng nhất là Đẩu Mẫu, cũng chính là Trung thiên phạn khí đẩu Mẫu nguyên quân, Trung thiên Bắc đẩu thất nguyên tinh quân… Trong sách Đạo nói rằng: Ngài là Tử Quang phu nhân, sinh được 9 con, hai con đầu là Thiên hoàng đại đế, Tử vi đại đế. Bảy con sau là: Bắc đẩu thất tinh. Các vì sao đã được nhân hóa, lại truyền cho Đẩu Mẫu sinh ra ánh sáng của trăng của trời, làm mẹ của chúng tinh Bắc đẩu. Đẩu làm phần hồn, thủy làm phần tinh, ban phát công đức, trị bệnh.
Nghi thức dâng sao giải hạn
Theo các nhà thuật sĩ, thì mỗi năm, mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh như: La hầu, Thổ tú, Thủy diệu, Thái bạch, Thái dương, Thái âm, Kế đô, Mộc đức, Vân hán. Trong số các sao đó, có sao mang tính cách tốt, lại có sao mang vận hạn xấu. Xấu thì làm lễ để tiễn, còn tốt thì làm lễ để nghinh đón. Lễ nghinh, tiễn này được tiến hành thường kỳ vào các tháng trong năm, vào những ngày nhất định. Chín ngôi sao này theo tương truyền cứ sau 9 năm lại luân phiên trở lại ứng với mỗi một cá nhân. Nhân ngày Rằm tháng Giêng hoặc trong tháng Giêng đầu năm, người ta vẫn tiến hành làm lễ dâng sao giải hạn, có thể ở chùa (là tốt nhất) hay tại nhà. Cũng theo phong tục thì 9 vì sao này xuất hiện vào ngày giờ nhất định trong tháng và có hình nhất định, do đó vào ngày nào mà sao nào chiếu thì người ta dâng sao giải hạn sao ấy là tốt nhất, số lượng đèn, nến phải đủ theo tính chất của các sao. Bài vị cũng được thiết lập trên giấy có màu tương ứng với ngũ hành của từng sao như sao Thái Dương: bài vị màu vàng, viết trên giấy dó mấy chữ “Nhật cung Thái Dương thiên tử tinh quân” và 12 ngọn đèn (hoặc nến), được bày theo hình của sao.
Sắm lễ:
Hoa quả, trầu cau, xôi, oản, trà, vàng tiền. Cúng lễ dâng sao ngày xưa khá cầu kỳ, phải lập đàn tràng tam cấp, trên cúng Trời, Phật, Tiên, Thánh; giữa cúng các vì sao thủ mạng, bậc dưới thì phẩm vật như cháo khoai… cúng bồ thí chúng sinh. Ngày nay, thành tâm là chính, “cốt là ở Tâm”, người ta có thể làm lễ dâng sao ngoài trời,