Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều (Quảng Ninh)

Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều (Di tích lịch sử – văn hóa đền, lăng mộ các vua Trần) thuộc địa phận các xã An Sinh, Tràng An, Bình Khê, Thủy An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Triều Trần (1225-1400) với võ công, văn trị hiển hách, đã mở ra một kỷ nguyên hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Theo tư liệu lịch sử và phả tộc họ Trần, vùng Đông Triều chính là đất tụ cư đầu tiên của họ Trần ở nước ta. Sau đó, vùng đất này được vua Trần Thái Tông ban cho anh trai là Trần Liễu làm ấp Thang Mộc. Chính vì vậy, nơi đây luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các vua nhà Trần.

Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều hiện nay được định hình rõ nét về mặt quy mô từ sau năm 1299, khi Thượng Hoàng Trần Nhân Tông đến Yên Tử tu hành, lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Đến cuối thế kỷ XIV, nhiều lăng mộ của vua Trần được xây dựng hoặc di chuyển về Đông Triều. Cùng với việc xây dựng lăng mộ, triều đình còn xây dựng đền, miếu để thờ cúng các bậc tiên đế, cùng nhiều công trình kiến trúc tôn giáo để phục vụ cho việc tu hành, giảng đạo. Vì thế, nơi đây đã trở thành một vùng “thánh địa” linh thiêng, nơi tập trung nhiều kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn của triều đại nhà Trần. Đông Triều còn được xem là một trong những trung tâm lịch sử, văn hóa đặc biệt tiêu biểu, là “Tâm điểm Phật giáo” của nước Đại Việt dưới thời Trần. Khu di tích hiện nay có tổng diện tích khoanh vùng bảo vệ là 22.063.054,5m², gồm hệ thống lăng mộ, đền – miếu, công trình tín ngưỡng, tôn giáo gắn liền với lịch sử nhà Trần và Thiền phái Trúc Lâm, tiêu biểu như:

  • Lăng Tư Phúc (lăng vua Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông): nằm trên một quả đồi thấp (xưa kia còn gọi là núi An Bài), thuộc thôn Trại Lốc, xã An Sinh. Theo sách Trần Triều Thánh tổ các xứ địa đồ, xưa kia, lăng Tư Phúc nằm trong một khuôn viên rộng, có núi bao bọc, bên trái có bia đá, bên trong có ba nền điện thờ, phía sau là khuôn viên có tường bao, trong tường bao là ba nền lăng.
  • Thái Lăng (lăng vua Trần Anh Tông): là nơi an táng vua Trần Anh Tông và người vợ của ông là Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng hậu. Lăng được xây dựng trên một quả đồi thấp, có tên là đồi Trán Quỷ, thuộc địa bàn xã An Sinh.
  • Mục lăng (lăng vua Trần Minh Tông): tọa lạc tại chân đồi Khe Gạch, thuộc địa phận xã An Sinh. Theo sách Trần Triều lăng tẩm đồ mạn ký, Mục lăng có ba nền. Hiện nay, Mục lăng đã bị phá hủy hoàn toàn, chỉ còn dấu tích ở vị trí phía dưới đập Trại Lốc.
  • Ngải Sơn lăng (lăng vua Trần Hiến Tông): tọa lạc tại chân đồi thuộc khu Ao Bèo, thôn Trại Lốc 2, xã An Sinh. Theo thư tịch cổ, lăng vua Trần Hiến Tông có mặt bằng hình chữ nhật, phần mộ ở giữa hình vuông. Lăng chỉ có một cửa vào duy nhất từ phía nam; trong cửa là hai dãy tượng thú và quan hầu bằng đá, được đặt đăng đối nhau, chạy dài đến tận phần mộ; phía sau cùng là điện miếu tế lễ. Hiện nay, ở quanh lăng còn có rất nhiều gạch, đặc biệt có loại gạch hình chữ nhật, bên sườn có chữ “Vĩnh Ninh trường” (gạch Vĩnh Ninh), nhiều mảnh ngói trang trí hình cánh sen, có họa tiết cúc dây.
  • Phụ Sơn lăng (lăng vua Trần Dụ Tông): được xây dựng trên một khu đất cao, bao quanh bởi các khoảnh ruộng thấp (vốn trước đây là những dòng nước chảy quanh lăng), thuộc địa bàn xã An Sinh. Hiện nay, Phụ Sơn lăng chỉ còn là phế tích, huyện Đông Triều đã cho đặt tại lăng một cây hương và một bàn thờ bằng đá.
  • Nguyên lăng (lăng vua Trần Nghệ Tông): quay hướng nam, nằm trên một sống đất cao, ba phía đông, tây, bắc được bao bọc bởi dãy núi Đốc Trại. Lăng thuộc địa phận Khe Nghệ, thôn Bãi Dài, xã An Sinh.
  • Hy Lăng (Đồng Hy lăng, lăng mộ giả của vua Trần Duệ Tông và Trần Thuận Tông): tọa lạc ở núi Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy, xã Thủy An, được xây dựng năm 1377, với tổng diện tích khoảng 1ha. Hiện nay, lăng đã bị phá hủy, chỉ còn phế tích kiến trúc.
  • Đền An Sinh (Điện An Sinh): tọa lạc trên một đồi đất thuộc địa bàn thôn Trại Lốc, xã An Sinh. Theo sách Trần Triều thánh tổ các xứ địa đồ, đền An Sinh được xây dựng vào thời Trần, thờ năm vị hoàng đế nhà Trần, có mặt bằng kiến trúc hình chữ Công, gồm bái đường, ống muống và hậu cung. Đến thời Nguyễn, điện được xây dựng lại theo bố cục hình chữ Tam, thờ tám vị hoàng đế nhà Trần. Bên cạnh đền có hai miếu nhỏ, để thờ bà Hoàng và Khổng Tử, xung quanh có thành rộng bao bọc, phía trước cửa có bia nhỏ đề “Hạ mẩ’ và “Tiêu diệc”. Đền An Sinh ngày nay có diện tích hơn 1.000m², mặt bằng kiến trúc dạng chữ Công, gồm năm gian tiền đường, một tòa trung điện và năm gian hai chái hậu cung, với kết cấu hai tầng tám mái, các bộ vì kèo dạng chồng rường, giá chiêng. Đền là nơi thờ Trần Hưng Đạo, Công đồng, Sơn thần, Thổ địa và tám vị vua Trần. Trong khuôn viên đền hiện còn lưu giữ rất nhiều hiện vật có giá trị và vật trang trí kiến trúc bằng đất nung có khung niên đại khoảng thế kỷ XIV-XVIII, như: bia đá, mảnh tháp, gạch, ngói, linh thú…
  • Đền Thái: nằm trên đồi Đình, thuộc thôn Trại Lốc, xã An Sinh. Khởi nguyên, đây chính là Tiên miếu, do An Sinh Vương Trần Liễu xây dựng vào khoảng nửa đầu thế kỷ XIII, thờ tổ tiên nhà Trần và Trần Thừa. Sau đó, bài vị của các vua Trần được đưa về đây thờ cúng và Tiên miếu được đổi thành Thái miếu. Thời Nguyễn, di tích bị tàn phá, nên dân làng đã xây dựng lại một ngôi đình, gọi là đình Đốc Trại, thờ tám vị vua Trần và được triều đình sắc phong là Thành Hoàng của làng Đốc Trại.
  • Am – chùa Ngọa Vân: nằm trên núi Bảo Đài, ở độ cao 600m so với mực nước biển, thuộc thôn Tây Sơn, xã Bình Khê. Ngọa Vân là địa danh gắn với nơi tu hành và viên tịch của vị Tổ thứ nhất Thiền phái Trúc Lâm – Trần Nhân Tông, cùng một số cao tăng thời Trần và thời Lê Trung Hưng. Di tích hiện đã bị phá hủy nặng nề.
  • Chùa Hồ Thiên (Trù Phong tự): được khởi dựng vào thời Trần, nằm ở phía nam dãy Phật Sơn, thuộc thôn Phú Ninh, xã Bình Khê. Tương truyền, địa điểm này là nơi đăng đàn thuyết pháp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và Pháp Loa. Di tích nay chỉ còn là phế tích.
  • Chùa Quỳnh Lâm: tọa lạc trên một ngọn đồi (núi Tiên Du) thuộc xã Tràng An. Chùa được khởi dựng từ thời Trần, theo tư liệu của Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam. Chùa được xây dựng trên một khuôn viên rất rộng, có nhiều công trình kiến trúc và cây xanh, trong đó có nhiều cây cổ thụ quý hiếm. Chùa còn lưu giữ rất nhiều di vật lịch sử, vật trang trí và di tích tôn giáo, với tổng diện tích khoảng 1ha.