Một thời trai gái chẳng được chạm tay: Lễ giáo, mối lái và vấn danh trong cưới hỏi xưa

Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì?
Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của Nho giáo.
Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì đều không trực tiếp tận tay, mà phải bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai chữ “thụ thụ” trái ngược nghĩa: một chữ “thụ” là trao cho, một chữ “thụ” là nhận).
Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt giữa bàn, khách tự lấy ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!
Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, khiêu vũ với nhau là chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam nói riêng và người Á Đông nói chung, nếu vô ý chạm vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.
Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng tấm chồng. Vì vậy mà các nhà quyền quý thường “cấm cung” con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính.
Thời phong kiến xưa, chỉ những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng, con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải phân biệt: đàn ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên phải.
Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường, nhưng ở nông thôn, đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nằm nhà ngoài đã trở thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà.

Mối lái là gì?
Trong xã hội phong kiến xưa, “nam nữ thụ thụ bất thân” nên hôn nhân cần phải có người môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách là “phải lòng nhau”, “mắc phải bùa yêu”. Nguyễn Du đã vạch đường cho Kim Trọng, Thúy Kiều cứ yêu nhau rồi sẽ “liệu bài mối manh”, nên các cụ nhà Nho mới kịch liệt phản đối, khuyên con cháu rằng:

Đàn ông thì chớ Phan Trần,
Đàn bà thì chớ Thúy Vân, Thúy Kiều.

Chu Mạnh Trinh vịnh Kiều còn cho rằng:

“Chỉ vì một tội môi manh chưa có, thề thốt đã nhiều;
Trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi…”

Nếu không có “mối manh” thì nhà trai làm sao biết được người thục nữ trong cửa các phòng khuê?
Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái. Nếu đẹp đôi vừa lứa, thì bà mối trở thành ân nhân suốt đời. Lễ tơ hồng xong, tạ bà mối một nửa mâm xôi, nửa con gà, kèm thêm chiếc áo lụa. Chẵn tháng cho con đầu lòng cũng cố mời bà mối đến dự, để tỏ nghĩa tri ân.
Nhưng cũng có nhiều tai họa do những bà mối có động cơ bất chính gây nên, để đôi trẻ suốt đời mang mối hận vì phận hẩm duyên hiu:

Hoặc là bởi “mẹ thầy lộn quýt”, quen những thói mồm tôm miệng cá, qua lại ít nhiều ngọt miệng, ép uổng duyên cô nông nổi thế, nặng tiền tài mà nhẹ gánh tình chung.
Hay vì “môi lái đèo bòng”, chẳng nhằm khi vào lộng ra khơi, nói phô mật rót vào tai, dỗ dành phận gái ngẩn ngơ tỉnh, già nhân sự để non quyền tạo hóa…

Xã hội mới vẫn cần có bà mối.
Bà mối thời nay là người tư vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài. Trong tương lai, có lẽ vai trò bà mối lại thuộc về những phương tiện thông tin đại chúng (như quảng cáo trên các phương tiện truyền thông) và các công ty dịch vụ, câu lạc bộ những người độc thân…

Lễ vấn danh có ý nghĩa gì?

“Lễ vấn danh” là lễ nhà trai đến nhà gái để hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ “chạm ngõ” hay là lễ “dạm” (có nơi gộp cả lễ dạm và hỏi cùng một lúc, gọi là lễ dạm hỏi). Truyện Kiều có câu: “Tiện đây canh thiếp trước cầm làm ghi”. “Canh thiếp” là giấy ghi họ tên, tuổi, quê quán, tên bố mẹ.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở nhiều vùng nông thôn, con gái từ khi sinh ra đến trước khi lấy chồng vẫn chưa đặt tên. Con gái không được vào sổ họ, sổ làng; không đi học nên không cần đặt tên. Ở nhà, lúc mới sinh con gái được gọi là con Hĩm, con Mực, con Chắt…

Trong nhà gọi tên gì thì hàng xóm, bà con gọi theo tên đó. Đến khi làm lễ vấn danh, ông bác hoặc bố mới đặt tên để ghi vào giấy hôn thú. Có khi chính người mang tên cũng không biết là mình mang tên gì trong giấy hôn thú, vì khi về nhà chồng thì lại gọi theo tên chồng, khi có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn thì gọi theo tên cháu.

Lễ vấn danh không phải chỉ hỏi tên mà chủ yếu là hỏi tuổi, để hai họ quyết định đôi nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, tuổi xung khắc thì thôi.

Trong hôn nhân xưa, người ta chỉ chú trọng: có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi không. Gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu kỹ “công, dung, ngôn, hạnh” (thường là các gia đình gia giáo). Chẳng thế mà nhiều chàng trai trước khi cưới chưa biết mặt vợ, mà có những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu. Do đó, trong gia đình sau này mới xảy ra nhiều chuyện oái oăm:

“Cảm ơn ông bà thương đến, tôi xin đồng ý gả, nhưng xin thưa chuyện trước: con tôi mồm mép chẳng bằng ai!”.

Tưởng như vậy là mình tìm được con dâu hiền hậu, không đanh đá chua ngoa, ai ngờ cưới về mới biết con dâu… sứt môi! Nhưng đã nhỡ việc, biết tính sao?

Lại còn có trường hợp đánh tráo: khi đi hỏi thì cho thằng em nhanh nhẹn và “sạch mặt” hơn đóng vai chàng rể, đến khi cưới về lại cưới cho thằng anh đần độn, xấu xí. “Miếng trầu nên dâu nhà người”, biết tính sao đây? Dù sao cũng mang tiếng một đời chồng.

Nên hiểu “lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống” như thế nào?

Đối với các cụ thì câu hỏi này là thừa, vì:

  • “Nòi nào giống ấy”
  • “Cây nào quả ấy”
  • “Giỏ nhà ai quai nhà ấy”
  • “Con nhà công, chẳng giống lông cũng giống cánh”

Ai chẳng muốn có trai lành gái đảm, rể thảo dâu hiền?

Thời nay, một số bạn trẻ coi thường việc “lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống”, cho chuyện đó là phong kiến lạc hậu. Có những đôi trai gái chỉ mới gặp nhau trên một quãng đường đã vội đính ước, tính chuyện vuông tròn, thậm chí họ đã biết rõ cả “ngọn nguồn lạch sông”!!!

Đành rằng cũng có trường hợp “một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên duyên”, song thành công là cá biệt, thất bại là phổ biến.

“Kén tông, kén giống” không có nghĩa là tìm chốn sang giàu, khinh người nghèo khó, mà chủ yếu là tìm nơi có gia giáo, có đức độ, vì:

  • “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”
  • Ngược lại: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”

Ngoài ra, việc “kén” này còn tính đến yếu tố di truyền, mà ông bà ta hay nói: “nòi nào giống ấy”.

Con người sinh ra, lớn lên do nhiều yếu tố xã hội chi phối. Nhưng nam nữ thanh niên mới lớn lên, chưa từng trải, thì giáo dục gia đình là yếu tố quan trọng và chủ đạo. Trong quan hệ vợ chồng không phải lúc nào mọi việc cũng suôn sẻ. Khi có việc khó khăn, trục trặc trong cuộc sống, ai cũng muốn nhờ điều hay lẽ phải để giải quyết thỏa đáng. Đó là lúc cần dựa vào tông tộc và họ hàng, tìm những tình cảm chân thành và những tri thức đúng đắn.

“Giọt máu đào” trong hôn nhân?

Ở các nước Âu – Mỹ, anh chị em con chú bác ruột vẫn có quyền lấy nhau. Qua tác phẩm Ơgiêni Grăngđê, ta thấy mối tình giữa hai anh em con chú bác ruột Grăngđê và Ơgiêni sở dĩ trắc trở là do thói keo kiệt bủn xỉn của lão Grăngđê, chứ tác giả không hề đả động đến vấn đề chung huyết thống.

Trung Quốc là một nước chịu ảnh hưởng của văn hóa phong kiến sâu nặng hơn nước ta nhiều, nhưng anh chị em con cô, cậu ruột, con dì ruột vẫn được lấy nhau. Ví dụ Bảo Thoa, Bảo Ngọc trong Hồng lâu mộng yêu nhau, lấy nhau là chuyện bình thường.

Ở nước ta, dưới triều Trần, con cháu nhà vua chỉ được lấy người trong hoàng tộc (lấy sang họ khác sợ bị nạn ngoại thích cướp ngôi). Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lấy Thiên Thành Công chúa, tức là cô ruột của mình. Vua Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm Hoàng hậu, tức chị con bác ruột. Vua Trần Minh Tông lấy Lệ Thánh Hoàng hậu, tức em con chú ruột, đều là cháu nội vua Trần Nhân Tông…

Thuyết di truyền học đã khẳng định: người có chung huyết thống mà kết hôn với nhau thì qua nhiều đời, dòng giống bị thoái hóa, có trường hợp bị quái thai. Vì vậy, anh em họ lấy nhau, kể cả họ nội hay họ ngoại, đều không có lợi.

Còn trong dân gian, từ triều Lê trở về sau, nếu trong họ nội thân cùng quê mà lấy nhau thì bị gọi là “hỗn thú”, họ hàng không chấp nhận. Nếu cùng họ nhưng đã xa đời, thuộc chi khác nhau hoặc đã xa quê (gọi là “biệt tông ly tổ”), thì vẫn lấy nhau được. Vì vậy, anh chị em con cô, cậu ruột coi như khác họ vẫn có quyền làm thông gia với nhau. Ca dao tục ngữ trong dân gian còn ca ngợi trường hợp cháu cậu mà lấy cháu cô, coi như:

“Thóc lúa trong bồ, giống má nhà ta”.

Luật pháp nước ta quy định: cùng chung huyết thống ba đời, kể cả bên bố hay bên mẹ, đều không được lấy nhau. Tuy vậy, trong thực tế nên giữ đến năm đời không kết hôn với nhau là tốt nhất. Dù sao, những người đó vẫn ít nhiều có điểm chung của “giọt máu đào”.

Sự tích tơ hồng

Tơ hồng Nguyệt Lão Thiên Tiên dựa theo tích Vi Cô gặp ông lão trong một đêm trăng, đang ngồi kiểm sách hướng về phía mặt trăng, sau lưng có cái túi đựng đầy dây đỏ. Ông lão cho biết: đây là những văn thư kết hôn của thiên hạ, còn những sợi dây đỏ là để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng.

Một hôm, Vi Cô vào chợ, gặp một bà già chột mắt bế đứa bé đi qua. Bỗng ông lão lại hiện lên báo rằng đứa bé kia sẽ là vợ của anh. Vi Cô giận, liền sai đầy tớ tìm giết đứa bé ấy. Người đầy tớ lén đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn.

Mười bốn năm sau, quan Thứ sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cô. Người con gái dung nhan tươi đẹp, giữa lông mày có trang điểm một bông hoa vàng. Vi Cô gạn hỏi, vợ mới trả lời: “Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế vào chợ thì bị một đứa cuồng tặc đâm phải.”

Vi Cô hỏi: “Có phải bà vú ấy bị chột mắt không?” Người vợ đáp: “Đúng thế.”

Vi Cô kể lại chuyện cũ, hai vợ chồng càng thêm quý trọng nhau, cho là duyên Trời định sẵn.

Tình yêu làm cho con người lú lẫn

…Tâu Thượng Đế, theo hạ thần thì Thượng Đế không cần đòi lại trí khôn của con người. Làm như thế không khỏi mang tiếng là Thượng Đế nhỏ nhen. Điều mà Thượng Đế nên làm là hạn chế trí khôn của con người.

– Bằng cách nào?

– Chỉ có tình yêu. Không có gì làm con người lú lẫn đi như trong tình yêu. Thượng Đế chỉ cần phái một vị thần mang một số vòng dây xuống trần, cứ đôi trai gái nào ở gần nhau thì quăng cho một vòng. Người nào càng thông minh thì càng phải quăng thêm nhiều vòng. Con người sẽ chỉ luẩn quẩn trong những chiếc vòng ấy và sẽ chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lên quấy nhiễu nhà Trời nữa.

Thượng Đế khen: “Thật là diệu kế.” Bèn truyền cho ông tiên già mang những chiếc vòng của Thượng Đế xuống trần gian.

Từ ngày bị ông tiên già khoác vào người mình những vòng dây tình ái, con người chỉ luẩn quẩn với nhau, không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau với Trời nữa. Ông tiên già ấy được gọi là ông Tơ.

Tục thách cưới

Đã thách là dở, hoặc dở nhiều hoặc dở ít. Thời nay, tự do luyến ái, hôn nhân được tôn trọng, Luật Hôn nhân và Gia đình đã giải phóng cho nam nữ thanh niên. Nhưng luật tục còn gò bó, trói buộc. Thách cưới cũng là một lệ tục lạc hậu còn rơi rớt lại, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái. Có khi làm cho chàng rể phải bó cuộc, mà nỗi thiệt thòi nhất lại rơi vào thân phận người con gái – bởi vì cũng mang tiếng một lần “đòi chồng”, làm cho những chàng trai khác phải ngại, khiến duyên phận lỡ làng.

Ngay thời trước, các cụ đã có câu: “Giá thú bất luận tài.” Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thất là điều mừng cho cả hai gia đình, thì vì vài ông bà cô, ông bác bên nhà gái khó tính mà đòi hỏi: nào quần áo, nón dép, nào rượu bánh, cau trầu, chè thuốc; nào nếp tẻ, lợn gà; nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt; lại còn tính đủ cỗ dâu, cỗ cưới bao nhiêu mâm… khiến nhà trai phải bó cuộc.

Cũng có đám nhà trai cố chạy ngược xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ. Nhưng ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ. Đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau.

Cũng có trường hợp nhà gái túng thiếu, không thể tự lực cung cấp đủ lễ vật theo lệ làng “trả nợ miệng”, nên đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Lại có trường hợp, bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần – sau khi thành thân còn cho con cái nhiều thứ – nhưng vẫn phải thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu, cho rằng con mình “ế duyên nên phải cho không”.

“Hay ít” là cách thách cưới của những gia đình có học thức, không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa, văn chương. Họ có ý chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con gái mình còn được “lọng anh đi trước, võng nàng theo sau”, chứ không đến nỗi rơi vào những anh chàng “vai u thịt bắp” nơi “nước mặn đồng chua”.

Giai thoại cụ Phan Điện thách cưới

Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện cụ Phan Điện thách cưới như sau:

Cụ Phan Điện (quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh) có người con gái khá xinh. Hoàng Mạnh Trí – nguyên Tổng đốc Nam Định, tục gọi là Thượng Nam – con của Quận công Hoàng Cao Khải, là người cùng quê, cùng lứa tuổi với cụ Phan Điện. Mạnh Trí muốn lấy con gái cụ Phan, thực ra là muốn đưa về làm nàng hầu (vì đã có vợ và hai người chênh lệch tuổi tác khá nhiều). Bèn cho gia nhân đến dạm hỏi.

Cụ Phan Điện giả vờ khúm núm trình thưa:

– Phúc đức cho gia đình nhà tôi quá! Con gái tôi được sửa túi nâng khăn cho cụ lớn, tôi còn ước ao gì hơn.

Gia nhân về tâu lại, Mạnh Trí khấp khởi mừng thầm. Hôm sau, sai gia nhân đến tạ ơn và hỏi:

– Vậy cụ thách cưới bao nhiêu tiền và lễ vật, xin cụ cho biết để tôi về bẩm với cụ Thượng?

Cụ Phan Điện đáp:

– Quý hóa quá! Xin đa tạ! Con tôi được về sửa túi nâng khăn hầu cụ lớn là diễm phúc lớn cho cả họ nhà tôi rồi, tôi còn dám thách gì nữa. Chỉ xin cụ lớn hai lạy, chỉ hai lạy thôi!

Gay quá! Chả lẽ là người có học mà không biết lễ nghi tối thiểu? Lấy con gái người ta thì phải gọi người ta bằng bố, cưới vợ thì phải lạy tạ bố mẹ vợ. Nhưng đường đường là một bậc đại thần triều đình mà phải lạy một người dân nghèo bạch đinh cùng lứa tuổi thì còn ra thể thống gì nữa?

Cuối cùng, Mạnh Trí đành đánh bài lờ, bỏ cuộc, để lại cho thiên hạ những nụ cười hả hê, khoái trá về tài đối đáp của cụ Phan Điện.

Sự tích tơ hồng

Tơ hồng Nguyệt Lão Thiên Tiên dựa theo tích Vi Cô gặp ông lão trong một đêm trăng, đang ngồi kiểm sách hướng về phía mặt trăng, sau lưng có cái túi đựng đầy dây đỏ. Ông lão cho biết: đây là những văn thư kết hôn của thiên hạ, còn những sợi dây đỏ là để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng.

Một hôm, Vi Cô vào chợ, gặp một bà già chột mắt bế đứa bé đi qua. Bỗng ông lão lại hiện lên báo rằng đứa bé kia sẽ là vợ của anh. Vi Cô giận, liền sai đầy tớ tìm giết đứa bé ấy. Người đầy tớ lén đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn.

Mười bốn năm sau, quan Thứ sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cô. Người con gái dung nhan tươi đẹp, giữa lông mày có trang điểm một bông hoa vàng. Vi Cô gạn hỏi, vợ mới trả lời: “Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế vào chợ thì bị một đứa cuồng tặc đâm phải.”

Vi Cô hỏi: “Có phải bà vú ấy bị chột mắt không?” Người vợ đáp: “Đúng thế.”

Vi Cô kể lại chuyện cũ, hai vợ chồng càng thêm quý trọng nhau, cho là duyên Trời định sẵn.

Tình yêu làm cho con người lú lẫn

…Tâu Thượng Đế, theo hạ thần thì Thượng Đế không cần đòi lại trí khôn của con người. Làm như thế không khỏi mang tiếng là Thượng Đế nhỏ nhen. Điều mà Thượng Đế nên làm là hạn chế trí khôn của con người.

– Bằng cách nào?

– Chỉ có tình yêu. Không có gì làm con người lú lẫn đi như trong tình yêu. Thượng Đế chỉ cần phái một vị thần mang một số vòng dây xuống trần, cứ đôi trai gái nào ở gần nhau thì quăng cho một vòng. Người nào càng thông minh thì càng phải quăng thêm nhiều vòng. Con người sẽ chỉ luẩn quẩn trong những chiếc vòng ấy và sẽ chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lên quấy nhiễu nhà Trời nữa.

Thượng Đế khen: “Thật là diệu kế.” Bèn truyền cho ông tiên già mang những chiếc vòng của Thượng Đế xuống trần gian.

Từ ngày bị ông tiên già khoác vào người mình những vòng dây tình ái, con người chỉ luẩn quẩn với nhau, không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau với Trời nữa. Ông tiên già ấy được gọi là ông Tơ.

Tục thách cưới

Đã thách là dở, hoặc dở nhiều hoặc dở ít. Thời nay, tự do luyến ái, hôn nhân được tôn trọng, Luật Hôn nhân và Gia đình đã giải phóng cho nam nữ thanh niên. Nhưng luật tục còn gò bó, trói buộc. Thách cưới cũng là một lệ tục lạc hậu còn rơi rớt lại, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái. Có khi làm cho chàng rể phải bó cuộc, mà nỗi thiệt thòi nhất lại rơi vào thân phận người con gái – bởi vì cũng mang tiếng một lần “đòi chồng”, làm cho những chàng trai khác phải ngại, khiến duyên phận lỡ làng.

Ngay thời trước, các cụ đã có câu: “Giá thú bất luận tài.” Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thất là điều mừng cho cả hai gia đình, thì vì vài ông bà cô, ông bác bên nhà gái khó tính mà đòi hỏi: nào quần áo, nón dép, nào rượu bánh, cau trầu, chè thuốc; nào nếp tẻ, lợn gà; nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt; lại còn tính đủ cỗ dâu, cỗ cưới bao nhiêu mâm… khiến nhà trai phải bó cuộc.

Cũng có đám nhà trai cố chạy ngược xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ. Nhưng ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ. Đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau.

Cũng có trường hợp nhà gái túng thiếu, không thể tự lực cung cấp đủ lễ vật theo lệ làng “trả nợ miệng”, nên đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Lại có trường hợp, bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần – sau khi thành thân còn cho con cái nhiều thứ – nhưng vẫn phải thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu, cho rằng con mình “ế duyên nên phải cho không”.

“Hay ít” là cách thách cưới của những gia đình có học thức, không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa, văn chương. Họ có ý chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con gái mình còn được “lọng anh đi trước, võng nàng theo sau”, chứ không đến nỗi rơi vào những anh chàng “vai u thịt bắp” nơi “nước mặn đồng chua”.

Giai thoại cụ Phan Điện thách cưới

Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện cụ Phan Điện thách cưới như sau:

Cụ Phan Điện (quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh) có người con gái khá xinh. Hoàng Mạnh Trí – nguyên Tổng đốc Nam Định, tục gọi là Thượng Nam – con của Quận công Hoàng Cao Khải, là người cùng quê, cùng lứa tuổi với cụ Phan Điện. Mạnh Trí muốn lấy con gái cụ Phan, thực ra là muốn đưa về làm nàng hầu (vì đã có vợ và hai người chênh lệch tuổi tác khá nhiều). Bèn cho gia nhân đến dạm hỏi.

Cụ Phan Điện giả vờ khúm núm trình thưa:

– Phúc đức cho gia đình nhà tôi quá! Con gái tôi được sửa túi nâng khăn cho cụ lớn, tôi còn ước ao gì hơn.

Gia nhân về tâu lại, Mạnh Trí khấp khởi mừng thầm. Hôm sau, sai gia nhân đến tạ ơn và hỏi:

– Vậy cụ thách cưới bao nhiêu tiền và lễ vật, xin cụ cho biết để tôi về bẩm với cụ Thượng?

Cụ Phan Điện đáp:

– Quý hóa quá! Xin đa tạ! Con tôi được về sửa túi nâng khăn hầu cụ lớn là diễm phúc lớn cho cả họ nhà tôi rồi, tôi còn dám thách gì nữa. Chỉ xin cụ lớn hai lạy, chỉ hai lạy thôi!

Gay quá! Chả lẽ là người có học mà không biết lễ nghi tối thiểu? Lấy con gái người ta thì phải gọi người ta bằng bố, cưới vợ thì phải lạy tạ bố mẹ vợ. Nhưng đường đường là một bậc đại thần triều đình mà phải lạy một người dân nghèo bạch đinh cùng lứa tuổi thì còn ra thể thống gì nữa?

Cuối cùng, Mạnh Trí đành đánh bài lờ, bỏ cuộc, để lại cho thiên hạ những nụ cười hả hê, khoái trá về tài đối đáp của cụ Phan Điện.

Cô dâu trước khi về nhà chồng cần phải có những thủ tục, động tác gì?

Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu, cô dâu cùng chú rể đến trước bàn thờ gia tiên, khấu đầu làm lễ, tự khấn niệm xin tổ tiên chấp nhận việc từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp, cầm sắt giao hòa. Cũng có thể nhờ gia trưởng khấn hộ để đúng bài bản.

Lễ xong, hai người đưa hộp trầu, bao thuốc đi mời chào thân nhân, khách khứa một lượt — trước hết là những người bề trên, cao tuổi, khách trước, người nhà sau. Những đám cưới được tổ chức bài bản thường có sự sắp xếp vị trí sẵn. Trong khi chào mời, cô dâu cần giới thiệu cho chú rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô phù hợp.

Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ. Cha mẹ ngồi sẵn một phía ở cửa chính. Nếu ông bà nội ngoại còn thượng thọ và có đến dự, thì cũng ngồi cùng phía, nhưng trên ghế cao hơn. Thời xưa, cả đôi tân hôn đều phải lạy hai lạy; ngày nay có thể châm chước, chỉ cúi đầu cung kính thưa rằng: “Kính phép ông bà, cha mẹ, con xin về nhà chồng”, hoặc “Kính phép ông bà, cha mẹ, con xin đón em X về”.

Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật kỷ niệm, có thể là một cây bút, chiếc gương soi nhỏ, một cuốn sách, một chiếc khăn tay, hoặc chiếc quạt… Nhà khá giả có thể cho thêm hoa tai, nhẫn cưới hoặc ít tiền mặt. (Lưu ý: Những thứ này thường đã được nhà trai mang đến trong lễ nạp tài. Trong gói quà mẹ chuẩn bị cho con gái có thể có trâm cài tóc, hoặc bảy chiếc kim đính tóc hay kim khâu gói trong khăn vuông).

Đối với ông bà, cũng có những động tác tương tự để bày tỏ lòng hiếu kính.

Lễ xin dâu và thủ tục tiến hành

Lễ này rất đơn giản: Trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hoặc hai người — thường là bà bác, bà cô, chị gái của chú rể — mang theo một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến để nhà gái chuẩn bị đón tiếp.

Phong tục này mang nhiều ý nghĩa sâu sắc:

  • Mặc dù hai bên gia đình đã thống nhất trước về ngày giờ và thành phần đón dâu, nhưng để phòng ngừa mọi sự bất trắc, hoặc tin tức sai lệch, người ta lập ra lễ xin dâu nhằm thể hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ.
  • Thời điểm này chú rể và cha mẹ thường rất bận rộn không thể sang nhà gái, nên nhờ người đại diện sang báo trước như một hình thức “tiền trạm”.
  • Trong trường hợp đoàn đón dâu đến muộn do thời tiết xấu hoặc trở ngại giao thông, thì nhà gái cũng biết trước để chủ động làm lễ gia tiên.
  • Trường hợp hai nhà ở quá xa hoặc quá gần, có thể thỏa thuận miễn bớt lễ này, hoặc gộp lễ xin dâu và lễ đón dâu làm một.

Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu

Khi đoàn đón dâu đến trước ngõ nhà gái, đoàn sẽ chỉnh đốn y phục, sắp xếp thứ tự người đi trước đi sau. Sau đó, một cụ già đi đầu họ cùng với người đội lễ (mang mâm quả đựng trầu cau, rượu…) đi vào trước, đặt mâm lên bàn thờ, thắp hương vái lạy rồi trở ra dẫn toàn đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu.

Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường, nhà gái sau khi vái chào xong sẽ chủ động xin miễn lễ, rồi một vị huynh trưởng sẽ ra đón đoàn nhà trai vào.

Mẹ chồng làm gì khi con dâu bắt đầu về nhà?
Phong tục ở mỗi địa phương một khác, có khi trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay.
Ngày xưa, ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho con dâu:
Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một cái nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy nước trong. Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi, chân tay, mẹ chồng bước ra cất nón cho con dâu. Con dâu một tay cầm lấy quan tiền, một tay vẫn cầm quạt che mặt. Mẹ chồng dắt con dâu vào nhà, đặt quan tiền và cái quạt lên bàn thờ, cúi đầu lễ gia tiên (bốn lạy ba vái theo tư thế của nữ). Sau đó, mẹ chồng dắt cô dâu cầm cả tiền và quạt vào buồng.

Trong buồng đã chuẩn bị sẵn trầu, nước, hoa quả, giường chiếu mới. Đôi chiếu trải úp vào nhau, do một người thân trong họ có tuổi tác, vợ chồng song toàn, con cháu đông, làm ăn phát đạt, được gia đình mời đến trải chiếu. Nếu mẹ chồng có đủ tiêu chuẩn trên thì mẹ chồng trực tiếp dọn giường trải chiếu, nhưng bố chồng thì không được. Trường hợp mẹ chồng đã mất thì một bà cô hay bà dì thay thế. Khi con dâu nghỉ ngơi xong, khăn yếm chỉnh tề, mới bưng hộp trầu ra chào họ.

Phong tục này có nhiều ý nghĩa:

  • Thời xưa, con dâu trước khi về làm dâu còn hoàn toàn xa lạ, bỡ ngỡ, chưa biết đâu là buồng đâu là bếp, ai là bố mẹ chồng. Trừ trường hợp hàng xóm quen biết nhau từ trước, thì thân phận con gái chưa cưới đã về nhà trai bị dư luận gièm pha là “con nhà hư đốn”. Có người chồng lại rụt rè e lệ, có trường hợp trước lễ cưới chưa hề tỏ mặt nhau. Vậy nên mẹ chồng niềm nở ra đón con dâu, dắt dâu vào nhà là hay, là phải lẽ. Mới bước về nhà chồng đã được tổ tiên, ông bà, cha mẹ chồng ban phước lộc dồi dào như nước – quan tiền là biểu tượng vốn liếng của riêng mà mẹ chồng trao cho.
  • Nhiều địa phương lại có tục khác: khi con dâu vừa vào đến nhà thì mẹ chồng cầm chiếc bình vôi tạm lánh sang hàng xóm ít phút. Tục đó cũng có ý nghĩa hay: tức là mẹ chồng đã xác định vai trò, trách nhiệm làm chủ của con dâu. Mẹ chồng sẵn sàng trao quyền lo công việc trong nhà cho con dâu, nhưng không phải trao toàn quyền, đẩy hết trách nhiệm mà bà vẫn là người nắm quyền điều hành, vì bình vôi là vật tượng trưng cho bà Chúa trong nhà.

Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu?
Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo. Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: ngày con gái vu quy, đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ; từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau. Mẹ thương con còn thơ dại cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Trong khi hai họ đang vui mừng ở nhà ngoài, thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tiệc tan, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu.

Qua một vài đám kiểu như vậy, người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu. Dần dần, bắt chước nhau, trở thành tục lệ. Ở một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do: con mình đã “gả bán” cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi “Giá thú bất luận tài” – nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi – nhưng không hiểu vì sao trong ngôn từ Việt Nam lại kết hợp “gả bán” liền nhau.

Ngày nay, hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau, kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn. Vì vậy, cha mẹ có nên đến dự lễ vui của hai con không? Ngày nay đã có nhiều đám cưới bỏ tục kiêng này.

Tại sao trong gói quà mẹ cho con gái trước giờ vu quy có một chiếc trâm hay bảy chiếc kim?
Tục này chỉ là một điều bí truyền do người mẹ thủ thỉ “tâm sự” với con gái vào buổi trước khi về nhà chồng. Thời trước, cô dâu quấn khăn nhiễu trên đầu, có đính mấy chiếc kim trên khăn là đủ hiểu rồi. Vì không có tài liệu thành văn, vì có những trường hợp mẹ mất sớm hoặc đám cưới xa quê vắng mẹ, nên nhiều bà mẹ thời nay (vốn là cô dâu ngày trước) không biết để truyền tiếp cho con gái. Xuất xứ của tục này là để phòng tai biến “phạm phòng”.

Còn tại sao lại 7 chiếc kim: Theo quan niệm cổ truyền “Nam thất nữ cửu” (đàn ông 7 vía, đàn bà 9 vía), vì để phòng xa cho con rể nên bà mẹ vớ chỉ đơm 7 chiếc kim – chứ không phải dùng cho con gái, vì con gái không bị phạm phòng.

Tại sao phải có phù dâu?
Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn nhân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì “nữ thập tam, nam thập lục”, con gái mười ba tuổi về nhà chồng đã biết gì đâu! Do đó cô dâu phải có người dắt dẫn. Người dắt cô dâu gọi là phù dâu.

Ngày xưa, phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng thuyết phục, bày vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu ủy thác. Người phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp, con cái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề, có thể truyền kinh nghiệm làm dâu, làm vợ, làm mẹ cho em, cho cháu mình. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại dăm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường phù dâu cũng trở về với cô dâu chú rể trong lễ lại mặt.

Đám cưới thời xưa phải có phù dâu, không định lệ, và cũng không có danh từ “phù rể”.

Đám cưới thời nay, nhiều nơi có cả phù dâu, phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù dâu, phù rể toàn là trai thanh, gái lịch chưa vợ chưa chồng. Có lẽ chủ yếu để cô dâu, chú rể thêm bạn.

Lễ lại mặt có ý nghĩa gì?
Lễ thành hôn, tơ hồng, hợp cẩn xong xuôi, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên, ông bà cha mẹ, đi chào họ hàng thân nhân bên nhà gái, sau đó đón bố mẹ và vài thân nhân sang nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà rể và nhà thông gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau ngày cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ), tùy theo khoảng cách xa gần và hoàn cảnh cụ thể mà định ngày. Thành phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi hai gia đình.

Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: Nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại cô gái, vì con gái ông bà đã mất trinh (đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt máu).

Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá trinh nàng Kiều xong dùng “nước vỏ lựu/máu mào gà” hòng lường gạt làng chơi tưởng nhầm là Kiều vẫn còn trinh.

Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, bố mẹ hai bên tuổi đã cao thì nên miễn cho nhau, cô dâu chú rể nếu bận công tác cũng nên được miễn. Nếu điều kiện cho phép thì nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp:

  • Nhắc nhở con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ cũng như bố mẹ mình.
  • Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ buổi đầu, tình cảm được nhân đôi.
  • Hai gia đình cùng trao đổi, rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và bàn bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc sống cho đôi trẻ trong tương lai.

Khi người đàn bà tái giá có những thủ tục gì?

Đàn ông lấy vợ gọi là “thú”, đàn bà lấy chồng gọi là “giá”. Có nhiều trường hợp đàn bà phải tái giá: Một là duyên không ưa, phận không đẹp phải ly hôn; hai là nửa đường đứt gánh, góa bụa khi tuổi còn xuân…

Ở đây, chúng tôi không đề cập đến sự khác nhau giữa luật hôn nhân thời xưa, thời nay và những quy định bất công đối với phụ nữ trong hôn nhân thời phong kiến, mà chỉ đề cập đến phong tục, trong đó một số phong tục còn duy trì đến ngày nay:

  • Cha mẹ chỉ gả bán một lần, lần sau không tham gia cưới hỏi.
  • Đàn bà góa, tục gọi là “nạ dòng”, ít có trường hợp lấy được trai tân, phần lớn làm vợ kế hay vợ lẽ, nói chung là chắp nối tơ duyên, “rổ rá cạp lại” nên lễ cưới hỏi chỉ bó hẹp trong phạm vi thân nhân gia đình và vài bà con xóm giềng.

Trường hợp bỏ nhau (ly hôn):

Bỏ nhau mà chưa có con với nhau thì “Trai chê trai bỏ, gái chê gái đền”. Nhiều khi nhà trai bắt đền tiền lễ sêu, lễ Tết, lễ hỏi, lễ cưới… nhiều gấp đôi gấp ba lần số tiền nhà trai đã bỏ ra cưới, bên nhà gái cũng phải chịu. Do đó, có nhà phải bố trí cho con gái trốn biệt tích. Dư luận xã hội cũng thiên vị, đánh giá con gái bị chồng rẫy là “nứa trôi sông, chẳng dập thì gãy”. Con gái đã “lộn” chồng, cha mẹ chứa chấp trong nhà cũng bị dư luận xã hội lên án.

Bỏ nhau mà đã có con thì nhà gái không phải đền tiền nữa nhưng không có quyền bắt con đi theo mẹ, cũng không được mang của cải gì về nhà mình. Mọi thứ của cải đã làm ra đều là của chồng, trừ ruộng hoa nữ, quần áo, đồ trang sức cũ của cha mẹ sắm cho. “Ruộng hoa nữ” tức là của hồi môn của cha mẹ cho con gái, tuy có giao khế ước cho nhà trai nhưng không quy định quyền của người bên nhà chồng sang thu tô. Nếu vợ chồng trực tiếp sản xuất thì chỉ thu hoạch xong vụ đó.

Nếu đã ly hôn tức là đoạn tình, không còn tang chế với nhà chồng. Chỉ còn mẹ và con để tang cho nhau, đều một năm.

Trường hợp góa bụa:

Người đàn bà ở lại thờ cha mẹ chồng và ông bà chồng đến khi mãn tang mới được lấy chồng khác. Nếu cha mẹ chồng mất trước, vợ chồng chưa ở riêng thì ở cùng anh, chị dâu cả. Trong hoàn cảnh không có nơi nương tựa mới xin về ở với cha mẹ đẻ hoặc anh chị em ruột.

Trước khi tái giá, người đàn bà góa phải lo liệu cho chồng cũ được mồ yên mả đẹp, làm lễ tạ chồng cũ, khấn cầu được phù hộ. Nếu cha mẹ chồng còn thượng tại cũng đưa trầu rượu đến lễ tạ để xin phép đi bước nữa. Con còn nhỏ dại thì có thể xin phép ông bà nội, nếu ông bà nội đã mất thì “quyền huynh thế phụ”, xin phép bác cả được đưa con đi theo. Con đã lớn thì tùy hoàn cảnh: ở lại với ông bà nội, về với ông bà ngoại hay đi cùng với mẹ. Nhưng ở đâu, đứa con cũng thuộc quyền bên nội.

Theo Thọ Mai gia lễ, người mẹ bị bỏ gọi là xuất mẫu, người mẹ góa lấy chồng khác gọi là giá mẫu. Đối với giá mẫu hoặc xuất mẫu, con chỉ để tang một năm. Nếu người mẹ vẫn nuôi con thì những đứa con được nuôi vẫn để tang mẹ ba năm; bố dượng nuôi thì để tang bố dượng một năm, không nuôi thì không phải để tang.

Trường hợp vợ chồng đã ly hôn một thời gian, sau cùng nhau thỏa thuận nối lại, hoặc chưa chính thức ly hôn nhưng người đàn bà bỏ chồng ra đi nay muốn trở về thì không gọi là tái giá. Nhưng trước khi trở về phải làm lễ tạ gia tiên nhà chồng và cha mẹ chồng. Điều này không quy định đối với chàng rể và cha mẹ vợ.

Xét theo phong tục cổ truyền và luật lệ phong kiến đối với các vụ ly hôn có nhiều điểm bất công đối với phụ nữ. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) đã bãi bỏ những điểm bất công đó, thể hiện trong các khoản về quyền lợi, trách nhiệm nuôi con và chia tài sản công bằng hợp lý hơn.

Trường hợp tái giá sau khi góa chồng, xét theo thủ tục xưa có nhiều điểm thể hiện được tình thủy chung, đạo nghĩa làm vợ làm dâu, song thời hạn đợi chờ ba năm mãn tang mới được tái giá thì quá câu nệ khắt khe. Điều đó ảnh hưởng không hay tới thân phận người phụ nữ, cần phải sớm bước đi bước nữa, ổn định cuộc sống gia đình tương lai; có khi còn ảnh hưởng tới thân phận con cái của người chồng cũ đang thơ dại, cần người san bớt gánh nặng, làm dịu bớt nỗi lo buồn mẹ góa con côi.

Ngay từ ngày xưa, tục lệ này ở nhiều vùng cũng đã được nới rộng, không nhất thiết chờ mãn tang mới tái giá. Nhưng không nên quá vội vã, thiên hạ sẽ chê cười. Tích truyện Quạt mồ, đập sàng sau đây chế giễu người đàn bà không chung tình vẹn nghĩa với chồng.

Chuyện kể rằng: Có hai người đàn bà. Một người, sau khi chồng chết, ngày nào cũng đến bên mộ chồng vừa quạt mộ vừa khóc lóc thảm thiết. Thiên hạ đi qua ai cũng bùi ngùi cảm động, khen ngợi chị này thương chồng vô hạn. Song dò hỏi kỹ mới biết, chị ta ngồi quạt mồ mong cỏ đắp mộ chồng chóng tươi xanh trở lại để chị chóng được đi lấy chồng khác, kẻo mang tiếng với đời là “chồng chết chưa xanh cỏ đã vội lấy chồng khác”.

Lại có một người đàn bà khác, thề thốt nặng lời khi chồng còn sống, nhưng khi chồng chết chưa kịp chôn cất đã bắt tình với bạn của chồng. Không ngờ, khi đập sàng ra mới biết là chồng giả chết để thử lòng chị ta.

Tại sao “nạ dòng” không lấy được “trai tân”?

Ngày xưa, những người đàn bà góa chồng hay bị chồng bỏ thì chỉ còn cách lấy lẽ hay lấy kế. Mặc dù còn trẻ, còn xuân cũng ít ai lấy được trai tân (trai tơ). Những ai là trai chưa vợ mà kết duyên với gái đã có một đời chồng, dù ít tuổi hơn mình, cũng bị làng trên xóm dưới chê cười. Ngược lại, có những đức lang quân đã ngoại tứ tuần, đã hai ba đời vợ vẫn lấy được con gái tơ chỉ bằng tuổi con mình. Như vậy mà thiên hạ vẫn khen là đẹp đôi vừa lứa.

Luật hôn nhân phong kiến có nhiều điều bất công đối với phụ nữ. Luật hôn nhân và gia đình ngày nay đã thực hiện đúng nam nữ bình quyền, nhưng tập tục, dư luận xã hội vẫn còn bất công đối với phụ nữ. Vậy, muốn thực sự giải phóng phụ nữ, phụ nữ phải tự đấu tranh, đòi giải thoát khỏi những mặc cảm vô lý nói trên. Đề nghị các cấp lãnh đạo, trước hết là cán bộ đoàn thể phụ nữ, hướng dẫn dư luận xóa bỏ dần những mặc cảm bất công trên.

Quan hệ vợ cả – vợ lẽ trước đây

Trước đây, ngoại trừ chế độ mẫu hệ, còn trong chế độ phụ hệ, người đàn bà chẳng mấy ai có “chồng cả, chồng lẽ”; ngược lại, đàn ông “năm thê bảy thiếp” là chuyện thường. Càng quyền quý cao sang thì càng nhiều vợ. Vua Minh Mạng có đến 142 người con; câu nói “Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dựng” (trong một đêm ngủ với năm bà thì ba bà có thai) phản ánh điều đó. Số lượng vợ của ông thì không thể thống kê hết.

Nguyễn Công Trứ 73 tuổi vẫn lấy vợ lẽ thứ mười. Đêm tân hôn, ông cảm tác:

Tân nhân dục vấn: Lang niên kỷ?
– Ngũ thập niên tiền nhị thập tam
(Nàng muốn hỏi anh: Chàng mấy tuổi?
– Năm mươi năm trước mới hăm ba).

Đạo Thiên Chúa chỉ cho phép tín đồ một vợ một chồng.

Thông thường, vợ cả là người được cưới hỏi trước, vợ lẽ là người lấy sau. Nhưng có trường hợp người con trai đi làm ăn xa, tự ý lấy vợ mà chưa được cha mẹ và họ hàng chấp thuận. Trong khi đó, ở quê, cha mẹ lại dạm hỏi và cưới cho một cô gái khác. Người vợ do cha mẹ cưới hỏi, dù lấy sau, vẫn được coi là vợ cả. Người vợ do tự ý lấy, nếu sau này được cha mẹ chấp thuận – dù con cái đã lớn – vẫn chỉ được coi là vợ lẽ. Con vợ lẽ, dù lớn tuổi hơn, cũng phải chào con vợ cả còn đang bế ngửa bằng “anh”, “chị”.

Trường hợp vợ cả chết sớm, không có con trai, thì con trai của vợ kế (đẻ sau) vẫn được coi là trưởng nam, là đích tôn thừa trọng. Trong khi đó, con trai của vợ lẽ – do phận thiếp, không “môn đăng hộ đối”, không do ông bà trực tiếp cưới hỏi – không đủ quyền kế vị.

Muốn cho gia đình êm ấm, người chồng phải khéo léo để chính vợ cả đứng ra đi hỏi vợ lẽ cho mình. Như vậy, người vợ lẽ và cha mẹ cô ta mới yên tâm.