Dân gian lưu truyền một câu chuyện như sau: Năm Khai Nguyên triều đại nhà Đường (Trung Quốc), Đường Minh Hoàng và Pháp sư Lã Công Viễn cùng thưởng nguyệt (ngắm trăng) trong cung Trường An. Hôm ấy trời cao, trăng sáng, bầu trời như tấm gương trong. Đường Minh Hoàng hứng thú nồng hậu, bỗng nảy ra ý muốn du chơi cung trăng. Lã Công Viễn cầm chiếc gậy đang chống, ném vào không trung, bỗng chốc biến thành cầu lớn màu bạc. Ông ta cùng Đường Minh Hoàng thuận đường bước lên cây cầu ấy đi vào cung trăng, vừa ngẩng đầu lên nhìn, thấy trên cửa cung viết rằng: “Quảng Hàn thanh hư phủ” (Phủ thanh hư Quảng Hàn). Lại thấy trong cung Quảng Hàn, bậc thềm làm bằng thủy tinh, sáng như gương, tiên sơn quỳnh các đẹp lộng lẫy. Hằng Nga thấy người trần gian đến, hết sức vui mừng, mời hai người vào cung, sai cung nữ bê bánh tiên xốp ngọt mời họ ăn, các cung nữ thì múa hát cho họ xem. Về sau, Đường Minh Hoàng về đến trần gian, sai người làm theo bánh tiên. Bởi vì loại bánh này vốn là bánh của trăng nên có hình tròn như mặt trăng, cho nên gọi là “bánh trăng” (tiếng Trung Quốc gọi là “Nguyệt bính”). Từ đó về sau, hằng năm vào tối Trung Thu có tục lệ ăn bánh trung thu và ngắm trăng.
Câu chuyện trên chứa đầy màu sắc ly kỳ, hoang đường, phản ánh con người đi tìm cuộc sống tốt đẹp, và sự tìm tòi trong vũ trụ. Thực tế, phong tục ăn bánh trung thu bắt nguồn từ sự sùng bái mặt trăng của người xưa. Thời đó, sức sản xuất vô cùng thấp kém, loài người không thể lý giải một cách khoa học đối với những hiện tượng ly kỳ trong tự nhiên. Khi mỗi hiện tượng tự nhiên là sức mạnh để con người dựa vào đó để sinh tồn mà không thể kháng cự, con người liền nảy sinh quan niệm kính sợ và sùng bái đối với chúng. Con người tưởng tượng ra bao nhiêu chuyện thần thoại xung quanh mặt trăng như: Hằng Nga hướng về mặt trăng, Ngô Cương phạt quế, Ngọc Thố giã thuốc… coi mặt trăng là thần vật và sùng bái mặt trăng. Các đế vương cổ đại của Trung Quốc đã có lệ cúng trăng mùa thu, dân gian cũng có tục lệ cúng trăng mùa thu, cúng mặt trăng chủ yếu là bánh có hình tròn như mặt trăng. Món bánh này sau khi cúng tế xong, được chia cho cả nhà ăn. Trong “Yến kinh tuế thời ký”, chương bánh trung thu có chép: “Bánh trung thu để cúng trăng, đâu đâu cũng có, trên vẽ hình mặt trăng, tế xong thì ăn”. Sự sùng bái đối với mặt trăng này về sau được con người liên hệ với cuộc sống hiện thực, nảy sinh ước muốn tốt đẹp. Ăn bánh trung thu là dịp đoàn tụ gia đình. Theo các tư liệu lịch sử còn ghi chép được, bánh trung thu là một loại thực phẩm có tên, xuất hiện sớm nhất trong sách “Vũ lâm cựu sự”, do người Nam Tống viết. Mọi người đều biết thời Lưỡng Tống, Nam Bắc đối địch, chiến tranh liên miên, xã hội hỗn loạn. Vì thế mà lúc này xuất hiện và hình thành phong tục ăn bánh trung thu, chính là dân chúng lao khổ cầu mong thái bình yên ổn, cũng là nguyện vọng tốt đẹp đoàn tụ gia đình của họ. Từ cổ đến kim, mọi người coi tết đầu năm, tết Nguyên tiêu và tết Trung thu là ba cái tết “đoàn viên”. Tết Trung thu, tiết trời mát mẻ, trong sáng, trăng tròn nhất, cả nhà đoàn tụ, ăn bánh trung thu, ngắm trăng, đây chính là sự kết hợp giữa nguyện vọng đoàn tụ gia đình với việc sùng bái mặt trăng thời cổ đại, vì thế mà hình thành nên phong tục ăn bánh trung thu, ngắm trăng rằm.
Sắm lễ:
Mâm lễ cúng gia tiên ngày Tết Trung Thu ngoài những món truyền thống thì bao giờ cũng phải có: bánh nướng, bánh dẻo, cốm, chuối, na, hồng, bưởi… và tất nhiên phải có hương, hoa, đèn, nến. Nhân dịp Tết Trung Thu, mọi người đều gửi biếu ông, bà, cha, mẹ, người thân, người mà mình mang ơn bánh Trung Thu, cốm, chuối, hồng… để tỏ lòng biết ơn và quý trọng.