Một trong những nét văn hóa đặc thù của dân tộc Việt Nam là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đã là người Việt Nam, thì mọi người đều thờ ông bà, mọi người đều thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc ta. Nó là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, tín ngưỡng này bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam.
Tổ tiên, theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ… Tổ tiên cũng là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại, như các vị Thành Hoàng làng, các Nghệ tổ. Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm, như Trần Hưng Đạo đã thành “cha” được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm, do vậy dân gian mới có câu: “Tháng 8 giỗ cha.” Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là mẹ Âu Cơ – người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam, còn là Vua Hùng – vị vua có công khai quốc của dân tộc. Ngày nay, giỗ tổ Vua Hùng đã trở thành quốc lễ: “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3”.
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng, nhằm xác lập mối liên hệ giữa người sống với người chết, giữa thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. Đây là sự thể hiện quan niệm về nhân sinh của người Việt Nam: “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”. Với người Việt Nam, chết chưa phải là hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, ngự trên bàn thờ mỗi gia đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong cuộc sống thường ngày. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng về quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và tương lai.
Phong tục thờ cúng tổ tiên được người Việt Nam rất coi trọng. Việc cúng giỗ tổ tiên được tổ chức vào ngày giỗ, lễ Tết trong năm và những ngày trong gia đình có sự kiện quan trọng như cưới hỏi, làm nhà, tậu trâu, thi cử, đi xa… Thông qua nghi lễ thờ cúng, người Việt Nam gửi gắm tình cảm biết ơn đối với tổ tiên. Trong mỗi gia đình, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành đạo hiếu. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn, cho nên người Việt Nam hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, tiếc thương khi cha mẹ khuất núi về với tổ tiên.
Cùng với sự thể hiện đạo hiếu với tổ tiên, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn là sợi dây liên kết giữa những con người trong cuộc sống hiện tại. “Anh em như thể tay chân”, “gà cùng một mẹ”, bà con làng xóm “tắt lửa tối đèn có nhau”, tình nghĩa xóm làng như “bầu bí” tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Từ đó, lòng nhân ái, tính cộng đồng được xây dựng và củng cố ở cả quá khứ, hiện tại và tương lai, giữa người đã khuất và người đang sống.
Tưởng nhớ tới tổ tiên, người Việt Nam nhắc nhở nhau phải sống sao cho xứng đáng với kỳ vọng của tổ tiên: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, con cháu phải tự hào, kính báo với tổ tiên để không phải hổ thẹn. Khi con cháu phấn đấu thành đạt thì “Vinh quy bái tổ”. Người Việt luôn cần cù, sáng tạo trong việc tạo dựng cuộc sống. Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động cũng được hình thành và khẳng định một phần thông qua ý thức về tổ tiên, cội nguồn.
Tổ tiên không chỉ là tấm gương sáng cho con cháu noi theo, hiếu với tổ tiên còn có nghĩa là con cháu phải thành đạt. Nhân dân ta luôn nhắc nhở con cháu thành đạt để làm rạng rỡ tổ tiên, dòng họ, làng xóm, quê hương.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn hun đúc nên tình yêu quê hương, yêu đất nước cho con người Việt Nam. Thôi thúc các thế hệ chiến đấu bảo vệ từng tấc đất của cha ông. Từ đây, lòng yêu nước, tự hào dân tộc là giá trị đạo đức quý báu, xuyên suốt và có ý nghĩa định hướng cho lẽ sống của con người Việt Nam.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình thành, tồn tại đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống như lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo, lòng hiếu học, lòng yêu nước. Trong đó, yêu nước là giá trị đạo đức hàng đầu trong hệ thống đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đây là những giá trị hết sức quý báu mà chúng ta cần nghiên cứu, khai thác để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Bản thân mọi giá trị không phải bất biến mà luôn biến đổi cùng tiến trình lịch sử. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sản phẩm tinh thần của “nền văn minh nông nghiệp”, “văn minh làng xã” trong lịch sử. Việc kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống đòi hỏi phải kết hợp với những giá trị đạo đức mới. “Nội dung mới” cần được đưa vào “hình thức cũ” cho phù hợp với xã hội công nghiệp hiện đại. Hiếu với tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ cần được nâng cao hơn, đẹp hơn, đó là “hiếu với dân, với nước”; lòng nhân ái cần được nhân rộng thành chủ nghĩa nhân đạo; tính cộng đồng cần kết hợp với chủ nghĩa tập thể; lòng yêu nước phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội; tính cần cù, sáng tạo trong lao động phải gắn với lòng tự tin, ý thức làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Trong hoạt động thờ cúng tổ tiên, cần khôi phục lại một số mỹ tục và kiên quyết đấu tranh chống lại các yếu tố mê tín dị đoan thiếu lành mạnh.
Từ xưa, người Việt Nam tôn trọng luân lý dựa trên căn bản đạo đức là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhân dân ta đặc biệt coi trọng chữ “đức”. Đức còn có đức nhân (tức là giữ đạo làm người), đức nghĩa, và đặc biệt là đức lễ. Biết giữ lễ nghĩa là biết đối xử với người như người đối xử với mình, chịu ơn người phải biết nhớ ơn, được người giúp đỡ phải biết báo đền lại.
Nhân dân ta từ xưa đã có cái nhìn rất biện chứng rằng trong con người có cả vật chất và tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm “linh hồn”, và “linh hồn” trở thành đầu mối của mọi tín ngưỡng.
Việc thờ cúng, lập bàn thờ tổ tiên để giữ lấy đức nghĩa của đạo làm người được các thế hệ người Việt Nam đặc biệt coi trọng. Vì thế, khi cha mẹ qua đời, con cháu phải lo tang ma chu đáo và thờ cúng theo truyền thống. Đó là một điều lễ theo lẽ trời, một phép tắc của người Việt Nam.
Ở người Việt, có một nét đặc thù về sự thờ cúng tổ tiên: tổ tiên gia đình và tổ tiên cả nước gắn chặt với nhau trong tưởng niệm và thờ cúng. Thờ cúng tổ tiên của người Việt được cố định ở một chiều sâu tiềm thức không phai nhạt. Người ta khẳng định con người, cá nhân không hề đoạn tuyệt với “dòng giống”, dù là trên phạm vi cả dân tộc hay ở phạm vi từng gia đình.
Thờ phụng tổ tiên của dân ta là nét đẹp về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, nét đẹp trong tình cảm tâm tư của người sống với người chết. Họ mong muốn tổ tiên “bất tử” để dìu dắt.