Văn Khấn Lễ Đảm Tế

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

  • Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
  • Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương.
  • Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.
  • Con kính lạy chư gia tiên Cao tằng tổ khảo, Cao tằng tổ tỷ.

Hôm nay là ngày… tháng… năm… (âm lịch),
Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là…
theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ) hoặc phụ thân (nếu là cha), cùng các chú bác, anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.

Nay nhân ngày Lễ Đảm Tế theo nghi lễ cổ truyền,
Kính dâng lễ mọn, biểu lộ lòng thành.
Trước linh vị của Hiển… chân linh,
Xin kính cẩn trình thưa rằng:

Than ôi! Nhớ bóng phụ thân (hoặc mẫu thân),
Cách biệt miền trần thế,
Tủi mắt nhà Thung (nếu là cha) hoặc nhà Huyên (nếu là mẹ), mây khóc, thăm thẳm sầu phiền.
Đau lòng núi Hỗ (nếu là cha) hoặc núi Dĩ (nếu là mẹ),
Sao mờ, đầm đìa ai lệ.

Kể năm đã quá Đại Tường;
Tính tháng nay làm Đảm Tế.
Tuy lẽ hung biến cát, tang phục đã kết trừ;
Song nhân tử sự thân, hiếu tâm lưu để.

Lễ bạc, kính dâng gọi chút, há dám quên cây cội, nước nguồn,
Suối vàng, như có thấu chăng, họa may tỏ, trời kinh đất nghĩa.

Xin kính mời Hiển…
Hiển…
Hiển…
Cùng các vị Tiên linh Tổ bá, Tổ thúc, Tổ cô và các vong linh phụ thờ theo Tiên Tổ về thụ hưởng.

Kính cáo: Liệt vị Tôn thần, Táo quân, Thổ Công, Thánh Sư, Tiên Sư, Ngũ Tự Gia thần cùng chứng giám và phù hộ cho toàn gia sự tốt lành.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

Ghi chú:

Sau 2 năm và 3 tháng dư ai, chọn một ngày tốt làm lễ:
Đắp sửa mộ dài thành mộ tròn, cất khăn tang, hủy đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính, bỏ bàn thờ tang.

Bài khấn này thể hiện lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, trong ngày lễ Đảm Tế, sau 2 năm 3 tháng kể từ ngày tang lễ.