Những người mới chết thường không được thờ chung tại bàn thờ gia tiên. Tang gia bao giờ cũng lập bàn thờ riêng, ở ngay tại nhà thờ hoặc ở một gian nhà ngang.
Bàn thờ sơ sài hơn bàn thờ gia tiên, chỉ gồm một bát hương, một bộ đài, một vài lọ hoa, với bài vị. Ngày nay, ngoài bài vị thường có thêm bức ảnh hoặc bức tượng.
Sở dĩ lập bàn thờ riêng là để tiện việc cúng bái hàng ngày và hàng tuần từ sơ thất đến thất thất.
Tại các bàn thờ riêng này có treo đối trướng, hoặc của chính gia chủ, hoặc của người thân thuộc, bạn bè phúng viếng.
Dưới đây là một số mẫu đối trướng thông dụng, do ông Viên Tài Hà Tân Phát sưu tầm trong cuốn Văn công Thọ mai gia lễ:
Thờ cha:
- Hồ sơn vân ám
- Vân ám danh hồ
Thờ mẹ:
- Đình tam thốc xã
Thờ chung cha mẹ:
- Chung thọ sương sâm
- Hồ sơn vân ế
Vợ chồng thờ lẫn nhau:
- Sơn trường thủy viễn
Chồng thờ vợ:
- Âm dung như tại
Vợ thờ chồng:
- Đồ vọng tế quân
Câu đối thờ ông bà cha mẹ:
- Ơn cao quá núi đôi ngàn trượng,
Nghĩa nặng hơn sông mấy vạn lần
hoặc: - Lễ sớm hương hôm lòng hiếu kính,
Non cao biển rộng đức sinh thành
Thờ cha mẹ:
- Hiếu đạo chưa đền ơn cúc dục,
Khuất còn thêm tủi phận làm con
Vợ chồng thờ lẫn nhau:
- Âm dương chia cách đành đôi ngả,
Nặng nợ tào khang một tấm lòng
Chồng thờ vợ:
- Trăm năm ân ái nay ly biệt,
Hôm sớm vào ra bặt bóng hồng
Thông dụng chung:
- Người về âm cảnh thận thu thái,
Kẻ ở dương gian dạ ngậm ngùi
Đối với ông bà, cha mẹ, trên các bàn thờ ta có thể thấy đôi liễn mỗi bên bốn chữ:
- Mộc tùng căn trưởng,
Thủy tự nguyên lưu
Nghĩa là: - Cây theo cội lớn,
Nước tự nguồn trôi