Chùa Dâu

Chùa Dâu còn có tên gọi khác là Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Định tự, chùa Bà Dâu, thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Theo thư tịch cổ, chùa được khởi dựng ở vùng Dâu (Luy Lâu) vào thế kỷ II đầu Công nguyên, thời kỳ Sĩ Nhiếp (nhà Hán) làm Thái thú quận Giao Châu. Đây được coi là trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta, là dấu tích quan trọng gắn với quá trình hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam.

Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng, cảnh quan đẹp, quay về hướng tây, có bình đồ kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm các hạng mục: tam quan, tiền thất (bái vọng đường), tháp Hòa Phong, Tam bảo, hậu đường, hai dãy hành lang và các công trình phụ trợ như nhà Mẫu và Tổ, nhà khách, vườn tháp, ao chùa, hệ thống tường bao.

  • Tam quan: gồm ba gian, bộ khung gỗ gác trên bốn hàng chân cột, kết cấu vì nóc kiểu “con chồng, giá chiêng, cốn, bẩy”. Các cấu kiện đều được bào trơn đóng bén, mái lợp ngói, tường hồi bít đốc, mở thông thoáng cả gian.
  • Tiền thất (bái vọng đường): gồm bảy gian, hai chái, với mái lợp ngói, đầu đao cong, bộ khung gỗ, các vì nóc đều được kết cấu theo dạng “tiền kẻ, hậu kẻ, câu đầu, trụ nóc”, tỳ lực trên bốn đầu cột. Hầu hết cấu kiện ở tòa này đều được bào trơn đóng bén, chỉ có những đầu kẻ ở gian giữa được chạm hoa lá cách điệu. Nội thất bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ trước khi vào lễ Phật.
  • Hai dãy hành lang song song với nhau, nối tiền thất và hậu đường. Mỗi dãy gồm 22 gian và được chia thành hai phần: hành lang phía trước 12 gian và hành lang phía sau 10 gian, được ngăn cách bởi một bộ cửa ván bưng. Hành lang phía sau là nơi thờ 18 vị La Hán.
  • Tháp Hòa Phong: được xây dựng ở giữa sân chùa. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao chín tầng, nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với ba tầng, cao 15m. Tầng thứ nhất, mỗi cạnh rộng 6,75m, cao 4,5m, bốn mặt đều có cửa, xây cuốn vòm. Tầng thứ hai cao 4m, mỗi cạnh rộng 6,15m, có bốn cửa cuốn vòm. Trên cùng là vòm mái, được xây cuốn bằng gạch. Đỉnh tháp được tạo hình như một bình nước cam lộ. Trong lòng tháp, phía dưới có bệ thờ “Tứ trấn” (Tứ Thiên Vương), bằng gỗ phủ sơn, cao 1,6m. Phía trên treo khánh đồng, chuông đồng. Phía trước tam cấp, cửa phía tây có hai tượng sóc đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Bên trái có một tượng cừu đá (dấu ấn của văn hóa phương Bắc, phản ánh sự hiện diện của Thái thú Sĩ Nhiếp khi đóng trị sở ở thành Luy Lâu). Trên tháp Hòa Phong hiện còn một tấm biển bằng đá xanh gắn ở phía tây (tầng 2) có đề ba chữ “Hòa Phong tháp”.
  • Tiền đường: được dựng trên nền thấp hơn thượng điện 0,6m, có chiều rộng 9,5m, chiều dài 21m, cao 0,37m, gồm bảy gian, hai chái, hai hồi xây bít theo kiểu cột trụ cánh phong. Tòa này có tám bộ vì kèo kiểu “câu đầu, trụ, nóc, cốn, tiền kẻ, hậu bẩy”, kết cấu khung đỡ mái tỳ lực trên 32 đầu cột. Trên các đầu kẻ, bẩy, cốn đều được chạm nổi hoa văn dạng mây lá, tứ linh, tứ quý, triện dây. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt năm gian giữa. Gian chính giữa có hai thành bậc đá chạm rồng, dài 2,15m, cao 0,65m, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương.
  • Thiêu hương: còn được gọi là ống muống, nối liền Thượng điện và Tiền đường, có chiều dài 9,4m, rộng 5,55m, mặt nền thấp hơn Thượng điện, gồm ba gian. Hệ thống đỡ hoành mái gồm bốn bộ vì, mỗi vì đều được gác trên bốn đầu cột. Trong tòa này đặt các ban thờ Thập điện Diêm Vương, Mạc Đĩnh Chi và Thái tử Kỳ Đà.
  • Thượng điện: được dựng trên nền cao 1,27m, có mặt bằng hình chữ nhật, dài 13,9m, rộng 10,65m, gồm một gian, hai chái, với bốn bộ vì, bốn mái đao cong. Đặc biệt, tại tòa này còn bảo lưu được hai bộ vì nóc kiểu “giá chiêng”, với khoảng giữa gắn hình lá đề chạm nổi đôi rồng chầu mặt trời và hai trụ trốn bên chạm nổi hình phỗng. Thượng điện có các ban thờ Đại Thánh Pháp Vân Phật (gọi tắt là Pháp Vân), tượng Bà Trắng, Bà Đỏ, Thạch Quang Phật, Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn…
  • Hậu đường: gồm chín gian, hai dĩ, bộ khung gỗ, vì nóc được kết cấu theo kiểu “trụ, quá giang, kẻ”. Đây là nơi thờ Đức Ông, Quan Âm, Thánh Hiền, Địa Tạng Vương, Hậu Phật. Trung tâm điện Phật có các tượng Tam Thế, Quan Âm chuẩn đề.
  • Nhà Tổ: nằm sát bên trái hậu đường. Đây là tòa nhà năm gian, tường hồi bít đốc, bộ khung gỗ, vì kèo kiểu “con chồng, giá chiêng, kẻ truyền”. Tòa này thờ Tổ và thờ Mẫu.

Chùa Dâu in đậm dấu ấn kiến trúc, điêu khắc của nhiều thời kỳ lịch sử, với hệ thống tượng pháp mang nghệ thuật đặc sắc của thời Lê – Nguyễn, đặc biệt là hệ thống tượng Tứ Pháp. Đây là một minh chứng sống động của sự dung hội giữa Phật giáo Ấn Độ khi du nhập vào nước ta với tín ngưỡng bản địa của người Việt, đã tạo nên một trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo mang bản sắc dân tộc.

Hội chùa Dâu mở vào ngày mồng 8 tháng Tư âm lịch hằng năm, nhằm ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Hội Dâu là hội của dân cư nông nghiệp, ý nghĩa quan trọng nhất của hội Dâu là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống nhân dân no ấm, sung túc.

Với ý nghĩa lịch sử đặc biệt, ngày 9-12-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2383/QĐ-TTg, xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Dâu là Di tích quốc gia đặc biệt.